Ảnh minh họa.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67-70 tỷ USD - một minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến.
Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gene, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.
Chia sẻ về kinh nghiệm quản lý sản phẩm Biến đổi Gen (GMO), TS Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gene: Thứ nhất là đánh giá rủi ro dựa vào đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng, không phụ thuộc vào công nghệ tạo ra nó; thứ hai là dựa trên công nghệ tạo ra sản phẩm.
Một số quốc gia không xem sinh vật chỉnh sửa gen là GMO nếu việc chỉnh sửa không thêm gen từ loài khác hoặc không tạo ra tổ hợp gene mới trong sản phẩm cuối cùng.
Tiêu biểu, tại Australia, từ năm 2019, các sinh vật được chỉnh sửa theo cơ chế SDN1 (không có sự chèn DNA ngoại lai) không còn được xem là sinh vật biến đổi gene.
“Xu hướng toàn cầu về quản lý cây trồng chỉnh sửa gene đang chuyển dịch theo hướng khuyến khích đổi mới, đảm bảo an toàn và minh bạch trong thương mại nông nghiệp. Nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á, đang hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng lợi ích của công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Hiện, nhiều nước áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gene là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá sản phẩm ngày càng dựa trên đặc tính của cây trồng cuối cùng thay vì quy trình công nghệ tạo ra nó, nhất là với các sản phẩm không chứa DNA ngoại lai”, ông Long thông tin.
Tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gene. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 đã đưa ra khái niệm về sinh vật biến đổi gene và quy định khung pháp lý cơ bản cho quản lý GMO. Tuy nhiên, đối với công nghệ chỉnh sửa gene, hệ thống pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện.
“Chúng tôi sẽ tiếp tục hiện đại hóa hệ thống phòng thí nghiệm và cơ sở dữ liệu gene quốc gia; phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, định hướng các chương trình nghiên cứu trọng điểm gắn với đổi mới sáng tạo. Song song đó, hợp tác quốc tế theo hệ thống, bảo hộ sở hữu trí tuệ, công tác truyền thông và chuyển đổi số sẽ được triển khai mạnh mẽ hơn trong thời gian tới”, ông Long nhấn mạnh.
Đức Duy