Chủ nghĩa khắc kỷ và chức năng điều tiết văn hóa trong xã hội hiện đại

Chủ nghĩa khắc kỷ và chức năng điều tiết văn hóa trong xã hội hiện đại
2 giờ trướcBài gốc
Chức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 6): Phật giáo Việt Nam và vai trò điều tiết của Phật phápChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 5): Vai trò của điều tiết trong văn hóa dân gian Việt NamChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 4): Từ giá trị đến chuẩn mực văn hóa trong xã hội đương đạiChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại (Bài 3): Nền móng tự điều tiết của đời sống văn hóa ViệtChức năng điều tiết của văn hóa trong sự vận động và phát triển xã hội hiện đại: Nhận diện văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Ví dụ, các trường phái triết học yếm thế do Antisthenes, học trò của Socrates sáng lập chủ trương lối sống khổ hạnh. Ngược lại, trường phái Cyrenais do Aristipus thành lập lại chủ trương lối sống tận hưởng lạc thú. Giữa hai thái cực đó có nhiều trường phái khác, trong đó có trường phái hoài nghi và trường phái khắc kỷ (trường phái này do Zeno xứ Citium sáng lập).
Giá trị hiện đại của chủ nghĩa khắc kỷ
Từ rất nhiều năm nay, ở châu Âu có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi đánh giá trường phái khắc kỷ. Có định nghĩa xác định người khắc kỷ là “người dường như lãnh đạm hoặc không bị ảnh hưởng bởi niềm vui, nỗi buồn, khoái lạc hay đau đớn”, có nghĩa là họ thuộc những người “vô cảm”. Cũng có ý kiến cho rằng, ra đời từ thời cổ đại, chủ nghĩa khắc kỷ giờ đây đã kết thúc.
Xuất phát từ những khái niệm, phạm trù, triết lý và thực hành của chủ nghĩa khắc kỷ, như sự bình thản, phong cách sống bản lĩnh, sự lưỡng phân của quyền kiểm soát, sự tự tiết chế bản thân, sự suy ngẫm..., chúng tôi cảm nhận có sự gặp gỡ với phạm trù “hệ điều tiết” xã hội của văn hóa nên đã tìm hiểu để góp phần làm rõ hơn về lý luận và thực tiễn khái niệm và nội hàm của chức năng điều tiết - từ góc nhìn lịch sử văn hóa.
Thật bất ngờ khi tìm thấy một quan điểm của Seneca - người tiêu biểu của chủ nghĩa khắc kỷ, đã nói rõ những nỗ lực khám phá của chủ nghĩa khắc kỷ là “cách thức để tâm trí có thể luôn luôn theo đuổi một lộ trình kiên định và thuận lợi, có khuynh hướng tích cực đối với chính nó và nhìn nhận được các trạng thái của nó bằng niềm vui”.
Ông cũng khẳng định, người thực hành các nguyên tắc khắc kỷ “cần phải luôn, dù anh ta có muốn hay không, cảm thấy hân hoan và có một niềm vui sâu sắc xuất phát từ bên trong, bởi lẽ anh ta thích thú với những nguồn vui của riêng mình, và không hề khao khát niềm vui nào lớn hơn những niềm vui nội tại này” (trích theo W.B. Irvine: Chủ nghĩa khắc kỷ - Phong cách sống bản lĩnh và bình thản, Nxb. Công thương, Hà Nội, 2020, tr.19, 22).
Ở đây, cùng với mục tiêu, ta đã thấy hé lộ - trong triết lý và trong thực hành - một năng lực tự điều tiết để không bị lôi kéo, lệ thuộc vào niềm vui từ bên ngoài mà hoàn toàn làm chủ, hân hoan với niềm vui “từ bên trong”, “nội tại” của mình.
Vậy, niềm vui đó là gì và làm thế nào để làm chủ, kiểm soát được nó?
Theo W.B. Irvine, mục tiêu của chủ nghĩa khắc kỷ không hề là những khao khát vốn dĩ chẳng đáng để theo đuổi, nhất là danh vọng và của cải, mà “thay vào đó, tập trung theo đuổi sự bình thản và đức hạnh” (xem W.B. Irvine: Chủ nghĩa khắc kỷ - Phong cách sống bản lĩnh và bình thản, Sđd, tr.120-121), mà nội dung của sự bình thản tạo nên phong cách sống bản lĩnh “là một trạng thái sống không có các cảm xúc tiêu cực, như tức giận, đau buồn, lo âu và sợ hãi, mà chỉ có những cảm xúc tích cực, đặc biệt là niềm vui”.
Như vậy, mục tiêu của chủ nghĩa khắc kỷ không phải là loại trừ cảm xúc khỏi cuộc sống như có người nhận định, mà là loại trừ những cảm xúc tiêu cực (các yếu tố liên quan đến tiền tài, của cải, địa vị, dục vọng, khát vọng ngoài mình...), tập trung xây dựng và nuôi dưỡng cảm xúc tích cực, đức hạnh và niềm vui, lạc quan về cuộc sống.
Vậy, con người phải làm gì để giữ được mục tiêu trên? Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng, cần cẩn thận phân biệt những thứ mình có thể kiểm soát và không thể kiểm soát, nhờ đó không cần bận tâm đến những thứ không thể kiểm soát và tập trung vào những thứ có thể kiểm soát. Khi nói về quyền kiểm soát này, Epictetus cho rằng, đó là sự “lưỡng phân: Một số thứ tùy thuộc vào chúng ta và một số thứ khác không tùy thuộc vào chúng ta”.
Sau này, khi phân tích, “chia nhỏ” nhận xét trên, W.B. Irvine đã diễn giải thành sự “tam phân quyền kiểm soát: Những thứ ta có toàn quyền kiểm soát, những thứ ta hoàn toàn không thể kiểm soát (như mặt trời có mọc vào ngày mai hay không) và những thứ ta có thể kiểm soát một phần.
Theo các nhà khắc kỷ, trong ba cách đó, cần quan tâm đến cái thứ nhất, mà trước hết là những mục tiêu đặt ra cho bản thân, những giá trị của bản thân, vì qua sự kiểm soát đó, ta có thể hiện thực hóa chúng hoặc ngăn ngừa chúng xảy ra” (xem W.B. Irvine: Chủ nghĩa khắc kỷ - Phong cách sống bản lĩnh và bình thản, Sđd, tr.120-121). Thuật ngữ kiểm soát, tự kiểm soát bản thân được sử dụng rất nhiều trong các bài viết, bài giảng của chủ nghĩa khắc kỷ. Marcus Aurelius - Hoàng đế La Mã, người có quyền lực nhất thế giới vào thời điểm đó - đặc biệt quan tâm đến khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa khắc kỷ.
Ông chỉ ra rằng, chúng ta có toàn quyền kiểm soát tính cách của mình..., chúng ta là người duy nhất có thể ngăn cản bản thân đạt được tính chính trực và lương thiện..., chúng ta hoàn toàn có khả năng ngăn chặn tính xấu xa hay tham lam trú ngụ trong tâm hồn mình..., chẳng gì ngăn được chúng ta trau dồi những đức tính khác bao gồm tính thành thật, đàng hoàng, siêng năng và điềm đạm, cũng như chẳng gì ngăn được chúng ta áp dụng các biện pháp để kiềm chế tính kiêu ngạo của mình, vượt lên trên những niềm vui và nỗi buồn, kiểm soát cơn giận của bản thân và không còn thèm khát danh vọng. Và Marcus cho rằng, chúng ta có thể có được những phẩm chất này ngay tức khắc, nếu chúng ta lựa chọn chúng (W.B. Irvine: Chủ nghĩa khắc kỷ - Phong cách sống bản lĩnh và bình thản, Sđd, tr.125-126).
Những từ được dùng trong nhận xét trên, như kiểm soát tính cách, ngăn cản bản thân, ngăn chặn tính xấu xa, trau dồi, kiềm chế, kiểm soát cơn giận, lựa chọn đều hàm chứa sâu sắc một đặc trưng trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển của tính cách con người, đó là tự điều tiết, tự kiểm soát, tự lựa chọn. Đây chính là một nội dung bao quát, quan trọng và có giá trị tích cực của chủ nghĩa khắc kỷ, hoàn toàn có thể vận dụng trong đời sống xã hội hiện đại, khi mà cuộc sống đang đặt ra cho con người quá nhiều những thách thức mới và ngày càng gay gắt, phức tạp.
Cách đây hàng nghìn năm, Marcus, vị Hoàng đế vĩ đại và chịu nhiều đau thương lớn lao, đã luôn tự kiểm soát mình, từng cho rằng, nếu không cưỡng lại lạc thú thì rốt cuộc chúng ta sẽ trở thành nô lệ “nhảy giật lên vì những thôi thúc ích kỷ và dành cả đời để ca cẩm hiện tại hoặc than vãn tương lai”. Ông cũng khuyên phải học cách “chống lại những tiếng thì thầm của nhục dục”. Những dự báo, khuyên răn và cả cảnh báo đó hoàn toàn còn nguyên giá trị văn hóa cho ngày hôm nay (W.B. Irvine: Chủ nghĩa khắc kỷ - Phong cách sống bản lĩnh và bình thản, Sđd, tr.155).
Chiều sâu nhân văn của văn hóa khắc kỷ
Từ triết lý sống trên, các nhà khắc kỷ tiến thêm một bước (khác với một số trường phái triết học chỉ dừng lại ở lý thuyết, ở tính học thuật của triết học), các nhà khắc kỷ đã nỗ lực đưa triết lý vào thực hành, mở các trường dạy cả triết lý và đặc biệt là thực hành sống. Và có lẽ, họ là “những người đầu tiên thừa nhận rằng thực hành kiểm soát bản thân đòi hỏi nhiều tâm sức”, và thật là dí dỏm nhưng đầy thuyết phục khi Musonius nói rằng, hãy nghĩ đến thời gian và năng lượng người ta tiêu tốn cho những cuộc tình vụng trộm mà họ sẽ không dính vào nếu kiểm soát được bản thân.
Từ đó, các nhà khắc kỷ luôn đề cao năng lực tự tiết chế bản thân tự suy ngẫm, và vì vậy, không có gì lạ khi các nhà khắc kỷ nhận ra hành động từ bỏ lạc thú, tự thân nó có thể mang lại chính lạc thú, đúng như nhận xét của W.B. Irvine: “Họ là một trong những nhà tâm lý học thông thái nhất ở thời đại của họ”.
Từ triết lý sống và thực hành triết lý tự kiểm soát, tự tiết chế, tự suy ngẫm để có một phong cách sống bản lĩnh và bình thản, các nhà khắc kỷ có những lời khuyên thể hiện sâu sắc năng lực tự điều tiết trong các quan hệ xã hội. Ví dụ, Marcus khuyên rằng, khi thấy bản thân đang bực bội vì những điều thiếu sót của ai đó, chúng ta nên dừng lại để suy ngẫm về những điều thiếu sót của chính mình.
Điều này sẽ giúp chúng ta thông cảm cho những lỗi lầm của người đó và khoan dung hơn với anh ta. Thật là chí lý, chí tình. Đó là kết quả mang giá trị nhân văn sâu sắc của sự điều tiết bằng văn hóa. Có rất nhiều lời khuyên mang giá trị nhân văn như vậy khi các nhà khắc kỷ góp tiếng nói, lời khuyên trước các giá trị bản thân, nỗi đau, bổn phận, khi bị xúc phạm, cơn giận, tuổi già hay cái chết...
Tất nhiên, những lời khuyên hay kinh nghiệm đó không phải là cẩm nang sống, song các nhà khắc kỷ luôn lấy chuẩn mực là năng lực tự kiểm soát, kiềm chế, tiết chế và chọn lọc. Ở đây chính là biểu hiện rất thuyết phục cả về triết lý sống và thực hành sống của sự điều tiết bằng các giá trị và chuẩn mực văn hóa trong nhân cách.
(Còn tiếp)
GS.TS ĐINH XUÂN DŨNG
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/van-hoa/chu-nghia-khac-ky-va-chuc-nang-dieu-tiet-van-hoa-trong-xa-hoi-hien-dai-187727.html