Giao Chính phủ quy định mức giảm trừ gia cảnh
Tại dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN, Bộ Tài chính đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh lên đến 15,5 triệu đồng/tháng đối với người nộp thuế và 6,2 triệu đồng/tháng với người phụ thuộc. Xin bà cho biết ý kiến của mình?
Theo quy định của Luật Thuế TNCN hiện hành, trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.
Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay là 11 triệu đồng/tháng với người nộp thuế và 4,4 triệu đồng/tháng với người phụ thuộc theo Nghị quyết 954 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội áp dụng từ năm 2020.
Chủ tịch VTCA Nguyễn Thị Cúc.
Theo Cục Thống kê, từ năm 2020 tới nay, chỉ số giá cả biến động là 21,24%. Tại dự thảo của Bộ Tài chính, nếu điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo chỉ số CPI chỉ vào khoảng 13,3 triệu đồng. Vì thế, cơ quan soạn thảo đã xây dựng mức giảm trừ trên cơ sở tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người giai đoạn 2020 đến nay, đều tăng khoảng 40-42%. Theo đó, đề xuất nâng mức giảm trừ cho người nộp thuế từ 11 triệu đồng/tháng lên 15,5 triệu đồng/tháng và mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 4,4 triệu đồng lên 6,2 triệu đồng/tháng. Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo Luật hiện hành là phù hợp.
Bộ Tài chính hiện đang đề xuất đưa các khoản chi thiết yếu như y tế, giáo dục… vào mức giảm trừ. Nhiều ý kiến cho rằng cần điều chỉnh mức giảm trừ theo vùng miền. Bà nghĩ sao về đề xuất trên?
Trên thế giới, mỗi quốc gia áp dụng mức giảm trừ gia cảnh khác nhau. Có nước lấy mức thu nhập bình quân thấp nhất làm mức giảm trừ; các khoản chi phí y tế, giáo dục, thuê nhà… sẽ được cộng thêm. Có nước không tách riêng mà tính gộp một khoản, tương tự như Việt Nam hiện nay với mức 11 triệu đồng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng cho người phụ thuộc.
Tuy nhiên, cũng cần nghiên cứu tách riêng để đảm bảo công bằng. Bởi cùng mức thu nhập, người có con đi học phải chi nhiều hơn, trong khi người không có con đi học thì phần thu nhập khả dụng cao hơn. Do đó, cần xem xét cho phép giảm trừ bổ sung đối với các khoản chi giáo dục, y tế, ngoài mức giảm trừ cơ bản.
Về đề xuất điều chỉnh theo vùng miền, vấn đề này đã nhiều lần được đưa ra khi sửa Luật Thuế TNCN. Người dân ở Hà Nội, Tp.HCM cho rằng chi phí giáo dục, y tế, sinh hoạt cao hơn nên mức giảm trừ cần lớn hơn. Tuy nhiên, nếu áp dụng như vậy sẽ tạo sự chênh lệch và không còn bình đẳng. Ví dụ, người ở miền núi có thể muốn chuyển về thành phố để được hưởng mức giảm trừ cao hơn, nhưng điều đó lại khó khả thi. Vì vậy, yếu tố vùng miền đã được loại bỏ khi xây dựng luật.
Trong quá trình tham gia xây dựng Luật Thuế TNCN, chúng tôi cũng đề xuất không quy định cứng mức giảm trừ mà bổ sung thêm yếu tố chi tiêu cho giáo dục, y tế. Cụ thể bao nhiêu cho trẻ em, bao nhiêu cho người già… thì nên giao Chính phủ quy định chi tiết trong từng giai đoạn, và nội dung này đã được đưa vào dự thảo.
Cần hiểu rằng mức giảm trừ gia cảnh được xác định dựa trên thực tiễn của từng quốc gia, vùng lãnh thổ. Ví dụ, nếu người nộp thuế có 10 triệu đồng thu nhập chịu thuế, họ chỉ phải nộp thuế TNCN 5%, tức giữ lại 95% thu nhập. Khi cộng với mức giảm trừ gia cảnh, đây sẽ là khoản chi tiêu thực tế. Vì vậy, nhận định rằng mức giảm trừ gia cảnh “không đủ sống” là chưa hoàn toàn chính xác.
Việc điều chỉnh nên có, nhưng nếu quy định tăng cứng hàng năm sẽ khó thực hiện, nhất là khi giá cả có thể tăng rồi lại giảm. Theo tôi, vấn đề này nên giao cho Chính phủ linh hoạt quyết định thay vì đưa thẳng vào Luật.
(Ảnh minh họa)
Cần kéo giãn khoảng cách các bậc thuế
Bên cạnh mức giảm trừ gia cảnh, biểu thuế lũy tiến từng phần cũng là vấn đề khiến nhiều người băn khoăn, thậm chí bức xúc. Theo bà, việc sửa đổi biểu thuế này nên theo hướng nào?
Thuế TNCN áp dụng càng nhiều bậc thì càng đảm bảo công bằng: người thu nhập thấp nộp ít, người thu nhập cao nộp nhiều. Tuy nhiên, biểu thuế lũy tiến từng phần hiện nay lại tồn tại bất cập. Chúng ta có tới 7 bậc nhưng khoảng cách giữa các bậc quá hẹp, dẫn đến thuế suất thực tế bị đẩy lên cao. Ví dụ: sau khi giảm trừ gia cảnh, thu nhập đến 5 triệu đồng chịu thuế 5%; từ 5 - 10 triệu đồng chịu thuế 10%; trên 10 - 18 triệu đồng là 15%... khiến biểu thuế thiếu hợp lý.
Vấn đề không nằm ở việc có 5 bậc hay 7 bậc, mà là ở khoảng cách giữa các bậc. Nếu giãn rộng, người nộp thuế sẽ hợp lý hơn. Chẳng hạn, đến 20 triệu đồng mới áp thuế 5%, từ 20 - 50 triệu đồng áp thuế 10%... thì vẫn giữ số bậc nhưng mức chịu thuế phù hợp hơn.
Dự thảo sửa đổi đã tính đến việc kéo giãn khoảng cách này. Tuy nhiên, khi xem xét biểu thuế, việc giảm bậc thuế suất cao nhất cũng là hướng tốt, nhưng quan trọng hơn vẫn là thiết kế khoảng cách giữa các bậc để phản ánh đúng khả năng đóng góp. Cần cân nhắc giãn rộng thêm khoảng cách các bậc để giảm mức điều tiết đối với khoản thu nhập từ tiền lương tiền công đặc biệt ở nhóm có thu nhập cao. Việc điều chỉnh phù hợp sẽ vừa đảm bảo mức điều tiết hợp lý, vừa khuyến khích tuân thủ pháp luật, đồng thời tạo động lực làm giàu hợp pháp.
Nhiều ý kiến đang đề nghị khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua việc tăng mức giảm trừ gia cảnh sẽ thực hiện ngay từ năm 2025. Quan điểm của bà thế nào?
Theo dự thảo của Bộ Tài chính thời gian điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh áp dụng từ năm 2026 trở đi. Tôi nhớ khi Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14 ký ban hành từ 1/10/2020 thì đã áp dụng ngay cho kỳ tính thuế năm 2020. Do đó, tôi mong muốn nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định nâng mức giảm trừ gia cảnh thì cho áp dụng ngay cho kỳ tính thuế năm 2025 và thực hiện khi quyết toán thuế năm này. Làm được như vậy tôi tin chắc sẽ khiến người nộp thuế phấn khởi hơn.
Xin cảm ơn bà!
Thanh Phương