Dự thảo luật phòng bệnh lấy người dân làm trung tâm, phòng bệnh suốt đời, phòng bệnh từ sớm, từ xa.
Trước gánh nặng kép về sức khỏe cộng đồng, với bệnh truyền nhiễm tiềm ẩn và bệnh không lây nhiễm gia tăng, cùng rối loạn tâm thần, dinh dưỡng kém và môi trường biến đổi, mô hình “chữa bệnh khi mắc bệnh” không còn phù hợp. Ngành y tế cần chuyển sang tư duy “chủ động phòng bệnh”, coi đây là tuyến phòng thủ đầu tiên bảo đảm sức khỏe toàn dân lâu dài.
Phó Cục trưởng Cục Phòng bệnh Phạm Đức Mạnh nhấn mạnh rằng, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 dù từng đóng vai trò quan trọng – đã bộc lộ nhiều hạn chế sau hơn 17 năm thi hành, nhất là trong đại dịch Covid-19. Nhiều vấn đề sức khỏe mới phát sinh, từ bệnh không lây nhiễm đến rối loạn tâm thần và gánh nặng dinh dưỡng, chưa được luật hiện hành điều chỉnh đầy đủ. Vì vậy, việc xây dựng Luật Phòng bệnh là cần thiết để “tạo hành lang pháp lý bao quát toàn diện các hoạt động phòng bệnh, góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc và chất lượng cuộc sống của người Việt Nam”.
Những định hướng lớn từ Nghị quyết số 72-NQ/TW (2025) và Nghị quyết số 20-NQ/TW (2017) khẳng định yêu cầu chuyển từ mô hình “khám bệnh – chữa bệnh” sang “phòng bệnh từ sớm, từ xa, từ cơ sở”. Điều này đặt người dân ở vị trí trung tâm của chính sách, coi việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng ngay từ vòng đời sớm nhất là nền tảng căn bản của phát triển bền vững.
Chính vì vậy, dự thảo Luật Phòng bệnh hướng tới bảo vệ sức khỏe từ khi con người chưa mắc bệnh; theo dõi, sàng lọc, phát hiện sớm ngay tại cộng đồng; đảm bảo một môi trường sống, làm việc và dinh dưỡng an toàn cho mọi nhóm dân cư. Dự thảo cũng đặt mục tiêu tạo sự bình đẳng trong tiếp cận, đặc biệt với nhóm yếu thế như trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, người nghèo, người cao tuổi - những đối tượng dễ bị tổn thương trước các yếu tố nguy cơ của bệnh tật.
Đáng chú ý, việc bổ sung quy định để thực hiện khám sức khỏe định kỳ hoặc sàng lọc miễn phí ít nhất một lần mỗi năm từ năm 2026 theo tinh thần Nghị quyết 72-NQ/TW cho thấy nỗ lực chuyển hẳn trọng tâm sang bảo vệ sức khỏe từ sớm. Đây không chỉ là thay đổi chính sách mà còn là sự thay đổi tư duy, đưa chăm sóc sức khỏe dự phòng trở thành quyền lợi thiết thực của từng người dân.
Một điểm mới đáng chú ý khác là việc đưa sức khỏe tâm thần vào trong luật. Đây là lĩnh vực lâu nay bị coi là “vùng trũng” của hệ thống y tế. Những định kiến xã hội khiến nhiều người ngại tìm kiếm hỗ trợ, trong khi các rối loạn lo âu, trầm cảm, sang chấn tâm lý ngày càng phổ biến, đặc biệt sau đại dịch.
Phó Cục trưởng Cục Phòng bệnh Phạm Đức Mạnh cho biết, Dự thảo luật quy định rõ trách nhiệm của gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương trong phát hiện sớm; đồng thời coi sức khỏe tâm thần là một phần thiết yếu của chăm sóc sức khỏe toàn dân. Đây là sự thay đổi có ý nghĩa lớn, thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước đối với một lĩnh vực vốn ít được chú ý nhưng lại ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của người dân.
Để những chính sách đó đi vào đời sống, dự thảo Luật dành hẳn một nhóm quy định về điều kiện bảo đảm phòng bệnh, từ hệ thống thông tin, chuyển đổi số, nghiên cứu khoa học đến nhân lực y tế dự phòng. Ông Phạm Đức Mạnh thừa nhận, nhân lực phòng bệnh hiện nay “vừa thiếu vừa yếu” so với khối lượng công việc, vì đây là lĩnh vực đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu và kỹ năng ứng phó phức tạp. Do vậy, luật phải quy định rõ ràng về đào tạo, chế độ đãi ngộ, phụ cấp chống dịch, cũng như yêu cầu xây dựng hệ thống thông tin phòng bệnh thống nhất trên toàn quốc để bảo đảm hiệu quả triển khai.
Dự thảo Luật Phòng bệnh đặt trọng tâm vào cộng đồng và trao cho người dân công cụ để bảo vệ sức khỏe chính mình. Đây là một bước chuyển quan trọng, thể hiện rõ tầm nhìn dài hạn của quốc gia trong bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Đức Trân