Từ các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên đạt chuẩn quốc tế, nhiều trường đại học (ĐH) sư phạm đang hình thành đội ngũ giáo viên có năng lực giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh. Lực lượng này được kỳ vọng sẽ trở thành nòng cốt trong hành trình đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Phóng viên Báo Đại đoàn kết đã có cuộc trao đổi với TS. Lưu Thị Kim Nhung – Giám đốc Trung tâm Phát triển giáo dục và công nghệ số, giảng viên chính Khoa Tiếng Anh, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội về vấn đề này.
TS. Lưu Thị Kim Nhung – Giám đốc Trung tâm Phát triển giáo dục và công nghệ số, giảng viên chính Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh: NVCC
Phóng viên: Ở góc nhìn của một giảng viên trường ĐH sư phạm và người trực tiếp tham gia các chương trình ngoại ngữ quốc gia, bà nhìn nhận như thế nào về khả năng hiện thực hóa chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học?
TS. Lưu Thị Kim Nhung: Với tư cách là giảng viên tiếng Anh của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, đã và đang tham gia nhiều hoạt động chuyên môn liên quan đến ngoại ngữ, trực tiếp tham gia triển khai Đề án Ngoại ngữ Quốc gia, tôi nhận thức sâu sắc rằng việc hiện thực hóa Nghị quyết 71-NQ/TW - đặc biệt là chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường - không chỉ là một định hướng chiến lược, mà còn là một yêu cầu cấp thiết xuất phát từ thực tiễn. Đây là bước đi quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế của nền giáo dục Việt Nam, góp phần phát triển nguồn nhân lực - con người Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc.
Thực tế giảng dạy tại trường cho thấy năng lực tiếng Anh của sinh viên sư phạm hiện nay khá tốt, nhiều em đạt chuẩn đầu ra quốc tế – đây là nền tảng thuận lợi để triển khai chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường một cách khả thi và hiệu quả.
Ở bậc phổ thông, theo báo cáo kết quả triển khai Đề án Ngoại ngữ, đội ngũ giáo viên tiếng Anh phần lớn đã đạt chuẩn năng lực theo quy định, đồng thời học sinh ngày càng được tạo điều kiện học tập tốt hơn nhờ sự quan tâm ngày càng lớn của phụ huynh trong bối cảnh đời sống kinh tế ổn định và nhận thức về vai trò của ngoại ngữ ngày càng nâng cao.
Những yếu tố này đang tạo nên “bệ phóng” vững chắc để từng bước hiện thực hóa chủ trương của Nghị quyết 71, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiếng Anh và năng lực hội nhập quốc tế của thế hệ trẻ Việt Nam.
Hiện nay, tình trạng thiếu giáo viên tiếng Anh là một trong những rào cản lớn để triển khai chủ trương này. Trong bối cảnh đó, đội ngũ giáo viên được đào tạo từ các trường sư phạm được kỳ vọng sẽ là lực lượng nòng cốt. Bà có thể cho biết công tác đào tạo giáo viên của nhà trường hiện nay được triển khai như thế nào?
- Xuất phát từ vai trò là đơn vị nòng cốt trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên của cả nước, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã triển khai hiệu quả nhiều chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên đạt chuẩn quốc gia và quốc tế, trong đó phải kể đến các chương trình đào tạo giáo viên tiếng Anh, các chương trình đào tạo giáo viên các môn Khoa học tự nhiên (Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tin học) dạy bằng tiếng Anh, các chương trình ngành ghép Giáo dục tiểu học – Sư phạm tiếng Anh và Giáo dục mầm non – Sư phạm tiếng Anh với mục tiêu đào tạo ra các cử nhân sư phạm có năng lực giảng dạy các môn học trong nhà trường và tổ chức các hoạt động cho trẻ mầm non bằng tiếng Anh.
TS. Lưu Thị Kim Nhung cùng sinh viên Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Ảnh: NVCC
Hàng nghìn sinh viên tốt nghiệp từ các chương trình này đã và đang góp phần lan tỏa mô hình dạy học hiện đại, tích hợp ngôn ngữ với nội dung các môn học, trở thành lực lượng quan trọng trong hành trình đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai theo tinh thần Nghị quyết 71.
Bên cạnh đó, trường là một trong những cơ sở giáo dục ĐH đầu tiên được Bộ GDĐT giao nhiệm vụ triển khai Đề án Ngoại ngữ Quốc gia. Thông qua Đề án, Nhà trường đã tổ chức nhiều khóa bồi dưỡng chuyên sâu cho giáo viên phổ thông, cao đẳng và ĐH, giúp họ nâng cao năng lực tiếng Anh và cập nhật phương pháp giảng dạy hiện đại và từng bước triển khai dạy các môn học bằng tiếng Anh trong các nhà trường. Các chương trình này được triển khai tại nhiều tỉnh, thành và nhận được phản hồi tích cực từ đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, nhà trường và xã hội.
Sự chênh lệch về điều kiện dạy và học giữa các vùng miền vẫn là một thách thức lớn trong việc triển khai chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai. Theo bà, cần có những giải pháp gì để bảo đảm cơ hội tiếp cận và chất lượng dạy – học tiếng Anh được đồng đều hơn giữa các địa phương?
- Tôi nhìn nhận triển vọng này một cách rất tích cực, kể cả khi vẫn còn tồn tại sự chênh lệch về điều kiện dạy và học giữa các vùng miền. Thực tế cho thấy, dù ở những vùng thuận lợi hay vùng khó khăn, đội ngũ giáo viên đều có chung một khát vọng lan tỏa giá trị của việc học tiếng Anh. Qua những chuyến công tác đến các địa phương xa như huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên hay miền núi phía Bắc, tôi cảm nhận rõ tinh thần trách nhiệm và mong muốn này từ chính đội ngũ giáo viên.
Điều kiện khó khăn thật, nhưng tôi tin vào những kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn – xác định rõ trọng điểm để làm nhiệm vụ nào trước, làm nhiệm vụ nào sau và quan trọng là sẽ không để những nơi xa xôi bị bỏ lại phía sau. Ngay cả ở vùng sâu, vùng xa, vẫn có đội ngũ giáo viên tiếng Anh, dù họ chỉ tốt nghiệp hệ vừa làm vừa học, năng lực tiếng Anh chưa thật sự đạt chuẩn, nhưng họ có thể đảm nhận một phần việc giảng dạy tại địa phương mình.
Trong thời gian tới, khi chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo được ứng dụng mạnh mẽ trong giáo dục, giáo viên ở mọi vùng miền đều có thể tận dụng công nghệ để học tập, tự bồi dưỡng và nâng cao năng lực tiếng Anh cũng như năng lực sư phạm. Giáo viên tiếng Anh trong mỗi trường không chỉ dạy học sinh mà còn có thể hỗ trợ đồng nghiệp ở các môn khác cùng cải thiện trình độ ngoại ngữ. Đây là bước đi trung hạn rất quan trọng.
Với sự hỗ trợ từ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, ứng dụng công nghệ và chính sách ưu tiên của ngành giáo dục, chúng ta có thể đảm bảo cơ hội tiếp cận tốt hơn và chất lượng dạy – học tiếng Anh được đồng đều hơn giữa các địa phương, từng bước hiện thực hóa chủ trương của Nghị quyết 71 một cách bền vững và hiệu quả.
TS. Lưu Thị Kim Nhung cùng các tân thạc sĩ. Ảnh: NVCC
Theo bà, đâu là những giải pháp để tạo môi trường học ngoại ngữ hiệu quả hơn trong trường học?
- Trong ngắn hạn, có thể triển khai ngay việc xây dựng môi trường và văn hóa sử dụng tiếng Anh trong các cơ sở giáo dục, từ mầm non tới đại học. Chẳng hạn, các trường có thể triển khai song ngữ trong hoạt động hành chính và truyền thông nội bộ: biển hiệu, bảng thông báo, tài liệu, văn bản; một phần trao đổi trong các cuộc họp, sinh hoạt chuyên môn, hay hoạt động ngoại khóa cũng nên sử dụng tiếng Anh. Khi học sinh được tiếp cận thường xuyên, năng lực ngoại ngữ của các em sẽ nâng lên, kéo theo yêu cầu giảng dạy của giáo viên cũng thay đổi.
Hiện nhiều trường đã thành lập Câu lạc bộ tiếng Anh, tổ chức ngày hội tiếng Anh, cuộc thi hùng biện, sân khấu hóa, mô phỏng hội nghị quốc tế, nhưng thực tế còn thiếu định hướng và tiêu chí đầu ra rõ ràng. Tôi cho rằng cần có sự hướng dẫn sát sao hơn của giáo viên, sự hỗ trợ của Sở GDĐT và Phòng Văn hóa Xã hội của các địa phương, cũng như sự chung tay của cộng đồng để các hoạt động ngoại khóa này thực sự hiệu quả, lan tỏa và bền vững.
Ngoài ra, ở các trường phổ thông, nhà trường có thể tổ chức hội thảo, khóa học tiếng Anh cho phụ huynh đồng hành cùng con em mình. Khuyến khích sử dụng tiếng Anh trong sinh hoạt gia đình và cộng đồng.
Về lâu dài để chủ trương này thực sự đi vào đời sống giáo dục, bà có đề xuất gì, thưa bà?
Tôi cho rằng một trong những giải pháp quan trọng vẫn là đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá năng lực tiếng Anh. Hiện nay trong tuyển sinh, các trường đại học đã ưu tiên thí sinh có chứng chỉ quốc tế như IELTS, SAT… hay chứng chỉ của Việt Nam VSTEP, nên nhìn chung năng lực tiếng Anh đầu vào của sinh viên đã được nâng lên, về lâu dài sẽ thúc đẩy đổi mới dạy học và đánh giá năng lực ở bậc phổ thông.
Thực tế, nhiều giáo viên phổ thông đã giao bài tập, tổ chức dự án học tập bằng tiếng Anh, hay dạy tích hợp nội dung – ngôn ngữ tại các trường điểm, các lớp có điều kiện. Tuy nhiên, tôi thấy việc này mới chỉ diễn ra cục bộ, cần được nhân rộng trong trung hạn.
Cùng với đó, ngành giáo dục cần phải đầu tư mạnh cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cốt cán, không chỉ bồi dưỡng tại chỗ mà cần có các khóa bồi dưỡng chất lượng cao, hợp tác quốc tế để họ đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ, nghiệp vụ giảng dạy môn học bằng tiếng Anh quốc gia và quốc tế. Sau khi được đào tạo, họ sẽ là lực lượng nòng cốt lan tỏa tới đội ngũ nhà giáo trong các cơ sở giáo dục.
Trân trọng cảm ơn bà!
Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: Tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học và dạy ngôn ngữ của các nước láng giềng. Nâng chuẩn tiếng Anh cho giáo viên và học sinh các cấp học; bảo đảm đủ số lượng, trình độ đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và công nghệ, ứng dụng mạnh mẽ trí tuệ nhân tạo trong dạy và học tiếng Anh; tăng cường giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh tại các nơi có điều kiện.
Nguyễn Hoài