Khi tiến vào trấn thủ vùng đất Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đem theo hơn một ngàn binh sĩ, năm trăm thân nhân, bộ khúc - chủ yếu là hai dòng họ Tống và Nguyễn ở Tống Sơn, Thanh Hóa - cùng với nhiều chiến thuyền, nhập cư, khẩn hoang, lập ấp, lập làng mới từ Hóa Châu đến tỉnh Phú Yên (cũ).
Di tích quốc gia Đình làng Gia Miêu - quê hương phát tích của dòng họ Nguyễn, nơi ghi dấu truyền thống thờ tổ tiên và gắn liền với sự nghiệp dựng nước, mở nước của các chúa Nguyễn
Trên thực tế, Nguyễn Hoàng tìm đường lánh nạn, tạo thế dung thân. Ông được những người thân thích và mọi người quý mến vì đức độ, tài năng, danh vọng lớn lao của gia đình, dòng họ. Tình nguyện đi theo ông còn có những bậc hiền tài, chức trọng quyền cao như: Nguyễn Cửu Kiều, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Khi cai quản vùng đất Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng cùng với hiền tài, binh sĩ gắng sức xây dựng cơ đồ, dùng ân đức để giáo hóa khoan dung, lấy nhân hậu để thu phục nhân tâm, nên dân chúng yên nghiệp làm ăn. Cũng từ đó, vùng đất này ngày càng được mở rộng, thu phục thêm nhiều nhân tài, vật lực, người người gắng sức làm ăn, đời sống cư dân ngày thêm phồn thịnh.
Tiếng lành đồn xa về ông lan rộng, lòng dân đất Thuận Hóa vững tin, hòa thuận, bình yên. Vì vậy, người ở huyện Quảng Xương, Nông Cống cũ (tỉnh Thanh Hóa); các dòng họ Lê, Trần, Trương ở tỉnh Quảng Nam; họ Đào ở Bình Định; họ Lê ở bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn - đều có nguồn gốc tổ tiên từ Thanh Hóa đã vào đây khai cơ lập nghiệp ngày một đông đúc hơn. Đáng chú ý là Đào Duy Từ (1572 - 1634), người huyện Tĩnh Gia (cũ), được chúa Nguyễn trọng dụng, đã sai đắp lũy Thầy để bảo vệ và phát triển xứ Đàng Trong, chiêu mộ dân đất Thuận Quảng, và ông đã trở thành nhà văn hóa, nhà quân sự nổi bật ở thời bấy giờ.
Người Thanh Hóa đi theo chúa Nguyễn Hoàng tiến sâu vào miền Tây Nam Bộ. Đến khai hoang, lập làng ở tỉnh Tiền Giang cũ (khoảng thế kỷ XVII), nhiều người quê gốc miền Trung, Nam Trung Bộ và người Thanh Hóa - họ là nông dân nghèo khổ, bị bắt tù đày… Có người họ Phạm Đăng, gốc Thanh Hóa, cũng theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa. Về sau, họ Phạm Đăng có ông Phạm Đăng Hưng trở thành đại công thần nhà Nguyễn. Con gái ông – bà Phạm Thị Hằng – là hoàng phi vua Thiệu Trị (1807 - 1847), vị hoàng đế thứ ba triều Nguyễn, là mẹ vua Tự Đức (1829 - 1883), vị hoàng đế thứ tư triều Nguyễn.
Di tích quốc gia Nguyên Miếu thuộc khu Lăng Miếu Triệu Tường nơi thờ các bậc tổ tiên của dòng họ Nguyễn, vừa được trùng tu, tôn tạo nhằm bảo tồn giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống
Trong suốt hai chục năm dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hoàng, miền đất Thuận Quảng giữ được bình yên. Nguyễn Hoàng về chầu vua Lê Thế Tông, đến phủ chúa Trịnh thăm Trịnh Tùng (năm 1596). Vua Lê Thế Tông sai Nguyễn Hoàng đi trấn áp một số quan lại nổi loạn làm phản với mưu đồ khôi phục nhà Mạc. Lần ra Bắc này, Trịnh Tùng có ý đồ lưu Nguyễn Hoàng ở lại đất Bắc, xin vua phong tước cao. Ông từ chối và tìm cách trở về Nam (năm 1600), tập hợp binh sĩ, nói là đi dẹp loạn ở cửa Đại An, Ninh Bình, rồi dong buồm kéo thẳng về Thuận Hóa, đưa quân đi đánh dẹp bọn tướng cướp Mỹ Lương, Lập Bạo và quân Chăm, lập lại trật tự vùng đất này.
Khi bình định xong xứ sở, Nguyễn Hoàng chú trọng tạo dựng mối quan hệ với nhân dân, củng cố quyền lực, sớm trở thành quốc gia phồn thịnh ở vùng đất phía Nam. Nguyễn Hoàng được mọi người yêu mến vì đức độ, tài trí, đã lôi kéo được một số quan lại, tướng lĩnh ở Bắc Hà về phối hợp bảo vệ nhà nước non trẻ của mình.
Năm 1613, chúa Nguyễn Hoàng qua đời. Thi hài ông được mai táng tại núi Thạch Lâm thuộc vùng Ái Tử, tỉnh Quảng Trị, sau đó cải táng đưa về La Khê, Thừa Thiên Huế. Lăng Nguyễn Hoàng được đặt tên là Trường Cơ, với kiến trúc cổ kính, mang đậm dấu ấn vương triều Nguyễn, hòa mình giữa thiên nhiên yên tĩnh – nơi yên nghỉ vĩnh hằng của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525 - 1613). Tấm bia đá khắc ghi công lao to lớn của Chúa Tiên – người đã tiên phong khai phá, mở rộng bờ cõi nước Đại Việt về phương Nam, đem lại sự phát triển bền vững của Đàng Trong suốt bốn trăm năm.
Nối ngôi cha, Nguyễn Phúc Nguyên (con thứ sáu của Nguyễn Hoàng) trở thành một thế lực mạnh so với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông tiếp tục khai khẩn, mở mang đất đai, đặt quan hệ với Nhật Bản và một vài nước khác. Vị tướng tài giỏi Nguyễn Hữu Cảnh (con trai Nguyễn Hữu Dật) tiếp tục thúc đẩy việc khai khẩn, mở mang đất đai. Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1697 - 1723), bờ cõi nước ta kéo dài đến tận Mũi Cà Mau. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời Nguyễn Hoàng cũng đã được chúa Nguyễn Phúc Chu quản lý. Như vậy, khởi đầu từ chúa Nguyễn Hoàng đi mở đất phương Nam, mở mang bờ cõi nước ta đến năm 1771 và trải qua 8 đời chúa với thời gian ngót hai thế kỷ.
Vùng đất xã Hà Long, tỉnh Thanh Hóa luôn tự hào đã sản sinh ra dòng họ Nguyễn có công lớn trong lịch sử dân tộc. Nhân vật lịch sử Nguyễn Hoàng là một trong những người tiêu biểu nhất của dòng họ, được lưu danh sử sách Việt. Ngày nay, người làng Gia Miêu, xã Hà Long mãi mãi tự hào về các bậc tiền nhân “đất quý hương” đã mở đầu sự nghiệp mở mang bờ cõi, định hình lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam vĩnh viễn trên bản đồ thế giới.
Lê Như Cương