Tài liệu chính phục vụ hội thảo là cuốn sách “Kỷ yếu hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” (do UBND tỉnh và Hội KHLS Việt Nam phối hợp thực hiện, Nhà xuất bản Thế giới - Hà Nội ấn hành, năm 2008).
Xin trích nội dung Báo cáo đề dẫn của cố GS-NGND Phan Huy Lê viết trong sách Kỷ yếu hội thảo: “Khi bàn về Chúa Nguyễn và triều đại nhà Nguyễn, không thể không trở về Thanh Hóa, nơi có Quý Hương (Hà Trung), có Gia Miêu Ngoại trang là quê hương của chúa Nguyễn Hoàng, gốc tích của dòng họ Nguyễn Gia Miêu và xứ Thanh cũng là quê hương của nhiều bề tôi trung thành, nhiều người dân lao động đã theo chúa Nguyễn vào mở cõi ở phương Nam trong những năm khởi nghiệp gian truân nhất. Vì vậy, trên đất Thanh Hóa còn để lại nhiều dấu tích về chúa Nguyễn và triều Nguyễn, đặc biệt là Khu lăng miếu Triệu Tường với nhiều kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, mang ý nghĩa linh thiêng của đất phát tích một vương triều. Nhưng rất tiếc các di tích này hầu như đã bị phá hủy, chỉ còn lại phế tích và gần đây, năm 2007 đã được xếp hạng di tích quốc gia để mở đầu một kế hoạch nghiên cứu, phục hồi, tôn tạo và phát huy giá trị...”.
Để làm rõ nhận xét của cố Giáo sư - NGND Phan Huy Lê, câu chuyện Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đi mở đất phương Nam, sách “Địa chí huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa” (Nhà xuất bản Khoa học - Xã hội xuất bản năm 2005) đã chép: "Dưới thời các chúa Nguyễn, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng (1525-1613), hay còn gọi là Nguyễn Thái Tổ, là vị chúa đầu tiên đặt nền móng cho dòng họ Nguyễn Phúc tộc và thiết lập nên vương triều nhà Nguyễn, trải qua tám đời chúa, mười ba đời vua từ năm 1802 đến 1945. Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) là người mở đầu cho sự nghiệp đi mở đất phương Nam. Quốc chúa Nguyễn Hoàng là con thứ hai của Nguyễn Kim (sinh năm 1525), người làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Khi tiến vào trấn thủ vùng đất Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đem theo hơn một ngàn binh sĩ, năm trăm thân nhân, bộ khúc - chủ yếu là hai dòng họ Tống và Nguyễn ở Tống Sơn, Thanh Hóa - cùng với nhiều chiến thuyền, nhập cư, khẩn hoang, lập ấp, lập làng mới từ Hóa Châu đến tỉnh Phú Yên (cũ).
Trên thực tế, Nguyễn Hoàng tìm đường lánh nạn, tạo thế dung thân. Ông được những người thân thích và mọi người quý mến vì đức độ, tài năng, danh vọng lớn lao của gia đình, dòng họ. Tình nguyện đi theo ông còn có những bậc hiền tài, chức trọng quyền cao như: Nguyễn Cửu Kiều, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Khi cai quản vùng đất Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng cùng với hiền tài, binh sĩ gắng sức xây dựng cơ đồ, dùng ân đức để giáo hóa khoan dung, lấy nhân hậu để thu phục nhân tâm, nên dân chúng yên nghiệp làm ăn. Cũng từ đó, vùng đất này ngày càng được mở rộng, thu phục thêm nhiều nhân tài, vật lực, người người gắng sức làm ăn, đời sống cư dân ngày thêm phồn thịnh.
Tiếng lành đồn xa về ông lan rộng, lòng dân đất Thuận Hóa vững tin, hòa thuận, bình yên. Vì vậy, người ở huyện Quảng Xương, Nông Cống cũ (tỉnh Thanh Hóa); các dòng họ Lê, Trần, Trương ở tỉnh Quảng Nam; họ Đào ở Bình Định; họ Lê ở bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn - đều có nguồn gốc tổ tiên từ Thanh Hóa đã vào đây khai cơ lập nghiệp ngày một đông đúc hơn. Đáng chú ý là Đào Duy Từ (1572-1634), người huyện Tĩnh Gia (cũ), được chúa Nguyễn trọng dụng, đã sai đắp lũy Thầy để bảo vệ và phát triển xứ Đàng Trong, chiêu mộ dân đất Thuận Quảng, và ông đã trở thành nhà văn hóa, nhà quân sự nổi bật ở thời bấy giờ.
Người Thanh Hóa đi theo chúa Nguyễn Hoàng tiến sâu vào miền Tây Nam bộ. Đến khai hoang, lập làng ở tỉnh Tiền Giang cũ (khoảng thế kỷ XVII), nhiều người quê gốc miền Trung, Nam Trung bộ và người Thanh Hóa - họ là nông dân nghèo khổ, bị bắt tù đày... Có người họ Phạm Đăng, gốc Thanh Hóa, cũng theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa. Về sau, họ Phạm Đăng có ông Phạm Đăng Hưng trở thành đại công thần nhà Nguyễn. Con gái ông - bà Phạm Thị Hằng - là hoàng phi vua Thiệu Trị (1807-1847), vị hoàng đế thứ ba triều Nguyễn, là mẹ vua Tự Đức (1829-1883), vị hoàng đế thứ tư triều Nguyễn."
Trong suốt hai chục năm dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hoàng, miền đất Thuận Quảng giữ được bình yên. Nguyễn Hoàng về chầu vua Lê Thế Tông (1567-1599), đến phủ chúa Trịnh thăm Trịnh Tùng (năm 1596). Vua Lê Thế Tông sai Nguyễn Hoàng đi trấn áp một số quan lại nổi loạn làm phản với mưu đồ khôi phục nhà Mạc. Lần ra Bắc này, Trịnh Tùng có ý đồ lưu Nguyễn Hoàng ở lại đất Bắc, xin vua phong tước cao. Ông từ chối và tìm cách trở về Nam (năm 1600), tập hợp binh sĩ, nói là đi dẹp loạn ở cửa Đại An, Ninh Bình, rồi dong buồm kéo thẳng về Thuận Hóa, đưa quân đi đánh dẹp bọn tướng cướp Mỹ Lương, Lập Bạo và quân Chăm, lập lại trật tự vùng đất này.
Khi bình định xong xứ sở, Nguyễn Hoàng chú trọng tạo dựng mối quan hệ với nhân dân, củng cố quyền lực, sớm trở thành quốc gia phồn thịnh ở vùng đất phía Nam. Nguyễn Hoàng được mọi người yêu mến vì đức độ, tài trí, đã lôi kéo được một số quan lại, tướng lĩnh ở Bắc Hà về phối hợp bảo vệ nhà nước non trẻ của mình.
Năm 1613, chúa Nguyễn Hoàng qua đời. Thi hài ông được mai táng tại núi Thạch Lâm thuộc vùng Ái Tử, tỉnh Quảng Trị, sau đó cải táng đưa về La Khê, Thừa Thiên Huế. Lăng Nguyễn Hoàng được đặt tên là Trường Cơ, với kiến trúc cổ kính, mang đậm dấu ấn vương triều Nguyễn, hòa mình giữa thiên nhiên yên tĩnh - nơi yên nghỉ vĩnh hằng của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613). Tấm bia đá khắc ghi công lao to lớn của Chúa Tiên - người đã tiên phong khai phá, mở rộng bờ cõi nước Đại Việt về phương Nam, đem lại sự phát triển bền vững của Đàng Trong suốt 400 năm.
Nối ngôi cha, Nguyễn Phúc Nguyên (con thứ sáu của Nguyễn Hoàng) trở thành một thế lực mạnh so với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông tiếp tục khai khẩn, mở mang đất đai, đặt quan hệ với Nhật Bản và một vài nước khác. Vị tướng tài giỏi Nguyễn Hữu Cảnh (con trai Nguyễn Hữu Dật) tiếp tục thúc đẩy việc khai khẩn, mở mang đất đai. Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1697-1723), bờ cõi nước ta kéo dài đến tận Mũi Cà Mau. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời Nguyễn Hoàng cũng đã được chúa Nguyễn Phúc Chu quản lý. Như vậy, khởi đầu từ chúa Nguyễn Hoàng đi mở đất phương Nam, mở mang bờ cõi nước ta đến năm 1771 và trải qua 8 đời chúa với thời gian ngót 2 thế kỷ.
Vùng đất xã Hà Long, tỉnh Thanh Hóa luôn tự hào đã sản sinh ra dòng họ Nguyễn có công lớn trong lịch sử dân tộc. Nhân vật lịch sử Nguyễn Hoàng là một trong những người tiêu biểu nhất của dòng họ, được lưu danh sử sách Việt. Ngày nay, người làng Gia Miêu, xã Hà Long mãi mãi tự hào về các bậc tiền nhân “đất quý hương” đã mở đầu sự nghiệp mở mang bờ cõi, định hình lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam vĩnh viễn trên bản đồ thế giới.
Với giá trị đặc biệt, năm 2007 khu Lăng miếu Triệu Tường, xã Hà Long được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia. Năm 2010 quy hoạch xây dựng theo Quyết định số 2948/QĐ-UBTH ngày 11/9/2012 của UBND tỉnh Thanh Hóa. Năm 2013, UBND tỉnh phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công và dự toán hạng mục phục hồi, tôn tạo Nguyên miếu và Trừng Quốc Công miếu giai đoạn 1. Năm 2018, UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể di tích Lăng miếu Triệu Tường (Quyết định số 3199/QĐ-UBND).
Năm 2021, UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết của HĐND phê duyệt dự án đầu tư tôn tạo, phát huy giá trị khu lăng Miếu Triệu Tường (giai đoạn 2) với tổng mức đầu tư 453 tỷ 207 triệu đồng (Quyết định số 1578/QĐ-UBND tỉnh, ngày 15/5/2021); trong đó: vốn ngân sách tỉnh 26 tỷ 650 triệu đồng, ngân sách huyện Hà Trung (cũ) 26 tỷ 350 triệu đồng, nguồn từ xã hội hóa 194 tỷ 580 triệu đồng để tôn tạo tiếp tục hoàn thiện các hạng mục di tích theo kế hoạch.
Xin lấy câu nói của cố GS-NGND Phan Huy Lê để thay lời kết: “Các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã đi vào lịch sử, nhưng di sản văn hóa mà thời kỳ lịch sử đó đã tạo dựng nên, kết tinh những giá trị lịch sử và văn hóa của dân tộc, thì mãi mãi trường tồn cùng non sông đất nước. Đó là bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc luôn luôn giữ vai trò động lực tinh thần nội tại của công cuộc phục hưng dân tộc, của sự phát triển bền vững của đất nước, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay”.
Lê Như Cương (CTV)