Chuyên gia góp ý quy định về giảm trừ gia cảnh; biểu thuế lũy tiến; chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân

Chuyên gia góp ý quy định về giảm trừ gia cảnh; biểu thuế lũy tiến; chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân
2 giờ trướcBài gốc
Dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) đang được Chính phủ soạn thảo để chuẩn bị trình Quốc hội khóa XV xem xét, thông qua vào kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025) tới đây. Trên cơ sở dự thảo Luật trình Chính phủ cho ý kiến đầu tháng 9/2025, PGS.TS Đinh Dũng Sỹ có một số trao đổi, góp ý để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật này.
Thứ nhất, nội dung sửa đổi quy định về giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế và người phụ thuộc.
Luật Thuế Thuế thu nhập cá nhân (áp dụng từ 01/01/2009) quy định mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
Đồng thời Luật quy định: Trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung Luật Thuế Thuế thu nhập cá nhân, hiện nay mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm); mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng (từ kỳ tính thuế năm 2020).
Với mức giảm trừ như hiện nay thì người có thu nhập từ tiền lương, tiền công ở mức 17 triệu đồng/tháng (nếu có 1 người phụ thuộc) hay mức 22 triệu đồng/tháng (nếu có 2 người phụ thuộc) sau khi trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp... thì hiện nay cũng chưa phải nộp thuế Thuế thu nhập cá nhân.
Hiện tại Bộ Tài chính đã soạn thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh để trình Chính phủ xem xét, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào kỳ họp tháng 10/2025 theo hướng tăng cao hơn so với mức hiện hành. Theo đó, cơ quan soạn thảo đề xuất quy định đối với trường hợp tăng thêm trên 20% (tương ứng là 13,3 triệu đồng đối với người nộp thuế và 5,3 triệu đồng đối với người phụ thuộc - theo tốc độ tăng CPI) hoặc tăng thêm trên 40% (tương ứng là 15,5 triệu đồng và 6,2 triệu đồng - theo tốc độ tăng của thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người).
Về vấn đề này xin có một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, ở thời điểm hiện nay, dự kiến mức giảm trừ 15,5 triệu đồng cho người nộp thuế, nếu so với mức tăng thu nhập bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người có hợp lý không?
Hiện thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 4700 USD/năm, tương đương 124 triệu đồng/năm = 10,34 triệu đồng/tháng. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, mức giảm trừ cho người nộp thuế thường cao hơn 1,5 đến 2 lần thu nhập bình quân đầu người.
Mặt khác, căn cứ vào tốc độ tăng chỉ số CPI trong những năm qua thì điều chỉnh tăng 40% ở thời điểm hiện nay là hợp lý.
Do vậy, mức giảm trừ 15,5 triệu/tháng cho người nộp thuế của phương án 2 là phù hợp.
Tuy nhiên, mức giảm trừ cho người phụ thuộc 6,2 triệu đồng là thấp. Các khoản giảm trừ cho người phụ thuộc là các khoản giảm trừ áp dụng cho những người mà đối tượng nộp thuế phải nuôi dưỡng.
Theo kinh nghiệm các nước, mức giảm trừ này cũng có sự khác biệt với các tiêu chí khác nhau nhưng thường được quy định thấp hơn so với mức giảm trừ cho cá nhân người nộp thuế. Tuy nhiên, cũng có nước không quy định riêng mà quy định một mức mức giảm trừ chung cho người phụ thuộc và cho cá nhân người nộp thuế.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam khi thu nhập còn thấp, đời sống người dân nói chung chưa cao, thậm chí nhiều người còn khó khăn vì thu nhập thấp thì để bảo đảm cuộc sống cho người dân nên nâng mức giảm trừ cho người phụ thuộc cao hơn, bằng khoảng 50% so với mức giảm trừ của cá nhân người nộp thuế là hợp lý.
Theo đó, nếu quy định mức giảm trừ cho cá nhân người nộp thuế tới đây là 15,5 triệu đồng thì mức giảm trừ cho người phụ thuộc nên nâng lên 7,5 triệu đồng là phù hợp.
Thứ hai, cần bổ sung vào dự thảo luật nguyên tắc mức giảm trừ cho người phụ thuộc bằng 50% so với mức giảm trừ đối với người nộp thuế để làm căn cứ áp dụng lâu dài.
Thứ ba, trường hợp tới đây Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua mức giảm trừ như đề nghị nói trên (15,5 triệu đồng và 7,5 triệu đồng) thì không quy định mức giảm trừ cụ thể trong Luật mà giao Chính phủ căn cứ vào chỉ số tăng giá (CPI) hằng năm để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo nguyên tắc: Chỉ số CPI tăng 10% thì Chính phủ điều chỉnh tăng mức giảm trừ gia cảnh tương ứng cho năm tính thuế tiếp theo để bảo đảm cuộc sống cho người dân theo nguyên tắc và cũng là mong muốn của Đảng và Nhà nước là bảo đảm đời sống của Nhân dân ngày càng tốt hơn.
Dự thảo quy định chỉ số CPI tăng 20% mới điều chỉnh là không hợp lý, vì khoảng cách 20% là quá rộng, tần suất điều chỉnh sẽ ít, chưa thực sự quan tâm đến bảo đảm ổn định và nâng cao cuộc sống của người dân.
Ngoài ra, dự thảo Luật quy định khi điều chỉnh mức giảm trừ, Chính phủ phải trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Thiết nghĩ quy định này là không cần thiết. Vì việc báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ là vấn đề thủ tục, nhưng lại làm tăng chi phí và công sức cho các cơ quan của cả Chính phủ và Quốc hội và cũng không phù hợp với chủ trương phân quyền, phân cấp hiện nay.
Do vậy, đề nghị cần trao quyền này cho Chính phủ. Theo đó, căn cứ vào số liệu thống kê của Cục Thống kê nhà nước, Chính phủ quyết định điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo nguyên tắc đã được quy định trong Luật.
Thứ hai, về biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Khoản 2 Điều 22 Luật Thuế Thu nhập cá nhân hiện hành quy định Biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công với 7 bậc thuế: 5%, 10%, 15%, 20%, 25%, 30% và 35%.
Thiết nghĩ Biểu thuế lũy tiến từng phần hiện hành là chưa hợp lý, quá nhiều bậc, giãn cách giữa các bậc quá hẹp dễ dẫn đến nhảy bậc thuế khi tổng hợp thu nhập vào cuối năm làm tăng số thuế phải nộp, tăng số lượng phải quyết toán thuế và tăng chi phí hành thu trong khi số thuế phải nộp thêm không nhiều.
Bộ Tài chính cho rằng, việc sửa đổi Biểu thuế thu nhập cá nhân cần phù hợp với định hướng trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030, phù hợp với bối cảnh KTXH, thu nhập và mức sống của người dân và với thông lệ quốc tế, đặc biệt là với các nước có điều kiện tương đồng, vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động, khuyến khích sự phát triển của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Từ đó, Bộ Tài chính đề xuất 02 phương án sửa đồi Biểu thuế. Cụ thể:
Phương án 1:
Phương án 2:
Việc thu hẹp số lượng bậc thuế sẽ góp phần đơn giản hóa công tác quản lý, thu thuế, tạo thuận lợi cho việc kê khai, tính thuế và phù hợp với xu hướng cải cách thuế thu nhập cá nhân trên thế giới. Thực hiện theo phương án 1 và phương án 2 đáp ứng được mục tiêu giảm bậc thuế, điều chỉnh thu nhập tính thuế ở từng bậc ở số chẵn.
Theo phân tích của Bộ Tài chính thì ảnh hưởng của hai phương án là khác nhau. Cụ thể:
Đối với Phương án 1, cá nhân có thu nhập tính thuế hiện đang ở bậc 1 sẽ không bị ảnh hưởng (tuy nhiên với việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh thì cá nhân đang có thu nhập ở bậc 1 đều được giảm thuế), các cá nhân hiện đang nộp thuế từ bậc 2 trở lên sẽ được giảm thuế so với hiện nay (ví dụ, cá nhân có thu nhập tính thuế 10 triệu/tháng sẽ được giảm 250.000 đồng/tháng, cá nhân có thu nhập tính thuế 30 triệu/tháng sẽ được giảm 850.000/tháng, cá nhân có thu nhập tính thuế 40 triệu/tháng sẽ được giảm 750.000 đồng/tháng, cá nhân có thu nhập tính thuế 80 triệu đồng sẽ được giảm 650.000 đồng/tháng...).
Đối với Phương án 2, cơ bản mọi cá nhân có thu nhập tính thuế từ 50 triệu đồng/tháng trở xuống sẽ được giảm thuế tương đương phương án 1, đối với các nhân có thu nhập tính thuế trên 50 triệu đồng/tháng thì mức độ giảm sẽ nhiều hơn phương án 1, vì vậy số thu ngân sách nhà nước sẽ giảm nhiều hơn phương án 1.
Việc phân tích như trên của Bộ Tài chính là đúng. Tuy nhiên, không nên căn cứ vào số thu ngân sách giảm nhiều hay ít, vì đó chỉ là tính toán trên con số. Còn về nguyên tắc, khi giá tiêu dùng tăng, đồng tiền bị mất giá, thì để bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống cho người dân cần phải điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân một cách phù hợp. Do đó, con số giảm thu chưa hẳn đã là con số mất đi. Từ đó cơ quan chức năng nên lựa chọn biểu thuế theo phương án 2.
Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ Tài chính, qua quá trình lấy ý kiến cũng có ý kiến đề xuất giãn các mức thu nhập trong từng bậc thuế cao hơn nữa, hạ mức thuế suất trong từng bậc, hạ mức thuế suất cao nhất từ 35% xuống mức thấp hơn (30% hoặc 25%)...
Thiết nghĩ, việc giãn các mức thu nhập trong từng bậc thuế theo phương án 2 là phù hợp. Tuy nhiên, về mức thuế suất còn có điểm còn chưa thực sự hợp lý.
Cụ thể, mức thuế suất ở bậc hai 15% là khá cao và cũng tạo ra khoảng cách khá rộng (10%) so với mức thuế suất 5% ở bậc 1. Trong khi thực tế thì những người thuộc diện nộp thuế ở bậc 2 là khá nhiều so với các bậc thuế khác. Điều này tạo ra một điểm bất hợp lý, chưa thể hiện tốt nhất mục tiêu của chính sách thuế thu nhập cá nhân.
Vì vậy, quy định về thuế suất ở bậc 2 nên đưa xuống mức 10% sẽ hợp lý hơn, đồng thời điều chỉnh thuế suất ở bậc 3 xuống còn 20%. Theo đó, 5 mức thuế suất trong biểu thuế ở phương án 2 sẽ là 5, 10, 20, 30 và 35% là hợp lý nhất theo nguyên tắc: mức thu nhập thấp nhất và mức thu nhập cao nhất sẽ có mức điều tiết thấp hơn so với những mức thu nhập còn lại.
Biểu thuế này thể hiện sự quan tâm của chính sách thuế đến đa số người có thu nhập trung bình, đồng thời khuyến khích, thu hút, trọng dụng nhân tài (người tài thường có thu nhập cao).
Đối với mức thuế suất cao nhất 35% ở bậc 5, đây là đề xuất hợp lý, vì đó là mức thuế suất trung bình, không quá cao cũng không thấp so với các nước trên thế giới cũng như trong khu vực ASEAN (một số nước trong khu vực như Thái Lan, Indonexia, Philippines cũng đang quy định mức thuế suất ở bậc thuế cao nhất là 35%; Trung Quốc là 45%).
Thứ ba, về chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân
Dự thảo Luật đã bổ sung nhiều chính sách miễn, giảm thuế có ý nghĩa, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số… phù hợp với xu hướng quốc tế, như: bổ sung quy định miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ lợi tức cổ phần của thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp, cá nhân là nông dân ký kết hợp đồng với doanh nghiệp tham gia "Cánh đồng lớn", trồng rừng sản xuất, nuôi trồng thủy sản; miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải, chuyển nhượng tín chỉ các - bon lần đầu sau khi phát hành của cá nhân được cấp chứng chỉ giảm phát thải, tín chỉ các - bon; thu nhập từ tiền lãi trái phiếu xanh, từ chuyển nhượng trái phiếu xanh lần đầu sau khi phát hành.
Dự thảo Luật cũng đã bổ sung quy định giảm 50% thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân là nhân lực công nghệ cao làm việc tại các doanh nghiệp, dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số và một số lĩnh vực ưu tiên phát triển theo quy định của Chính phủ.
Tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo nên tiếp tục rà soát các chính sách từ 04 Nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị và các nghị quyết 70, 71, 72 về các chính sách đối với lĩnh vực an ninh năng lượng, giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khỏe Nhân dân để có chính sách ưu đãi thuế thu nhập cá nhân hợp lý.
Đặc biệt, cần nghiên cứu, bổ sung chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với người không cư trú để thu hút nhân tài. Cần có chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân hợp lý đối với người không cư trú thì mới thu hút được nhân tài, nhất là người tài từ nước ngoài về hoặc đến Việt Nam làm việc. Từ đó chúng ta mới có thể có được những Tổng công trình sư, những Kiến trúc sư trưởng là những chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực công nghệ then chốt ở nước ngoài trở về hoặc chọn đến Việt Nam làm việc, cống hiến. Đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế tại hai Thành phố lớn: Hồ Chí Minh và Đà nẵng thì chính sách miễn giảm thuế thu nhập cá nhân cho người không cư trú sẽ là một trong những ưu đãi thu hút rất quan trọng và có ý nghĩa cho việc kiến tạo thành công Trung tâm tài chính quốc tế này./.
PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ
Nguồn Chính Phủ : https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/chuyen-gia-gop-y-quy-dinh-ve-giam-tru-gia-canh-bieu-thue-luy-tien-chinh-sach-mien-giam-thue-thu-nhap-ca-nhan-119251008095501777.htm