Đó là nội dung trọng tâm được nhiều chuyên gia và doanh nghiệp đưa ra tại phiên thảo luận “logistics và cảng biển thông minh gắn với mục tiêu chuyển đổi kép”. Đây là một trong ba phiên thảo luận song song được tổ chức tại Diễn đàn Kinh tế mùa Thu năm 2025, diễn ra vào ngày 26/11.
“Chúng tôi muốn đưa những con tàu lớn hơn đến Việt Nam”
Ông Benoit de Quillacq, Tổng giám đốc Công ty TNHH MSC Việt Nam (Chủ sở hữu hãng tàu MSC Việt Nam) đánh giá việc giảm phát thải carbon và số hóa các hoạt động là cực kỳ quan trọng. “Công ty chúng tôi cũng đang phát triển các đội tàu mới, xanh hơn. Những chuyển đổi này nhằm mục đích tăng tính cạnh tranh và tạo sự kiên cường trong thương mại”, ông nói.
Theo ông Benoit de Quillacq, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để phát triển những cảng xanh, cảng thông minh. “Nếu đặt mình vào vị trí khách hàng hoặc công ty vận tải toàn cầu, tôi muốn container của tôi rời bến và đến Việt Nam trực tiếp, đúng thời điểm. Điều này đòi hỏi kết nối tốt, không chỉ từ cảng nước sâu mà còn từ cảng nước sâu đến các trung tâm”, ông Benoit de Quillacq cho hay.
Các doanh nghiệp tin rằng Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để phát triển những cảng xanh, cảng thông minh. Ảnh: Trọng Tín.
Ở phía Nam, khu vực Cái Mép hiện nay kết nối với ICD TP.HCM bằng đường sông. Tuy nhiên, thời gian trung chuyển từ Cái Mép tới trung tâm Thành phố có thể bằng thời gian trung chuyển từ Singapore tới Cái Mép, đây là một yếu tố chúng ta phải giải quyết.
“Cần đảm bảo sà lan vận hành đúng thời lượng để giao hàng trôi chảy. Kết nối nội địa cũng quan trọng như kết nối ngoài khơi, vì nếu nội địa bị tắc nghẽn thì chuỗi cung ứng sẽ không liên hoàn”, ông nói thêm.
Việt Nam đang cạnh tranh với các cảng mạnh ở châu Á như Thượng Hải, Singapore. Hiện tại, chỉ có 2 Cảng container ở Việt Nam có khả năng tiếp nhận những con tàu siêu lớn. Điều này tốt, nhưng không đủ tốt, vì thị trường tiếp tục tăng trưởng và quy mô tàu cũng tăng lên.
“Chúng tôi muốn đưa những con tàu lớn hơn đến Việt Nam, và để làm được điều đó, các cảng phải có đủ khả năng và công suất phục vụ”, ông nói, đồng thời cho biết MSC Việt Nam không tin vào việc chỉ trung chuyển, mà muốn chuyển hàng trực tiếp đến tay khách hàng tại Việt Nam.
Tuy nhiên, khả năng đưa tàu lớn cập cảng Việt Nam đòi hỏi các Cảng phải được thiết kế sao cho có sự kết nối và tiếp chuyển hiệu quả giữa tàu lớn và tàu nhỏ/sà lan.
Còn ông Benjamin Lim, Giám đốc Cấp cao Khối Chiến lược Tập đoàn YCH cũng nhận định,Việt Nam có khả năng và cơ hội để trở thành một trung tâm kết nối. Gần đây, Tập đoàn YCH đã thay đổi chiến lược, xây dựng các "superport" (siêu cảng). “Chúng tôi có văn phòng ở Hà Nội vì thấy rõ tiềm năng của Việt Nam”, theo ông Benjamin Lim.
Đại diện Tập đoàn YCH lý giảikhái niệm “superport” có nghĩa là phải vận dụng được đa phương tiện vận tải. Chỉ sử dụng vận tải đường bộ không thì không đủ. Để đạt được điều này, chúng ta cần cơ sở hạ tầng tạo sự liên kết giữa các phương tiện vận chuyển khác nhau.
Về nguồn nhân lực, YCH giúp Việt Nam tăng cường khả năng bằng cách có những hệ thống đào tạo riêng. Công ty thu hút sinh viên Việt Nam từ các trường đại học, đưa họ qua Singapore đào tạo trong vòng 9 tháng về các chuyên ngành như quản lý kho bãi. Sau đó, đưa họ trở về để hoạt động trong ngành logistics ở Việt Nam. Lý do là kiến thức này không được dạy đầy đủ trong lớp học đại học.
Cảng biển thông minh, xanh là tất yếu
Phát biểu tại phiên thảo luận, Phó chủ tịch UBND TP.HCM Bùi Xuân Cường đánh giá quá trình chuyển đổi xanh và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, logistics và cảng biển đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm chuỗi cung ứng thông suốt và phát triển bền vững.
Nếu có kế hoạch tốt, chuyển đổi số, phát triển xanh và đối tác mạnh, Việt Nam có thể trở thành một trung tâm logistics hàng đầu ở châu Á. Ảnh: Trọng Tín.
Với vị trí là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, TP.HCM có tầm quan trọng đặc biệt trong mạng lưới logistics khu vực, đồng thời giữ vai trò cửa ngõ hàng hải, cửa ngõ xuất nhập khẩu lớn nhất, kết nối Việt Nam với thế giới.
Thành phố đang tập trung phát triển hệ sinh thái logistics hiện đại, thông minh và xanh, gắn với các cụm cảng trọng điểm như Cái Mép, Cát Lái, Hiệp Phước (khu vực Thị Vải). Đặc biệt là Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ, một dự án chiến lược có ý nghĩa đột phá trong hành trình phát triển kinh tế biển của Thành phố.
Thành phố cũng đang triển khai đồng bộ quy hoạch hạ tầng logistics, ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, giảm phát thải carbon theo tiêu chí cảng xanh. Đồng thời, thúc đẩy liên kết vùng và hợp tác công tư nhằm hình thành các trung tâm logistics cấp vùng, kết nối hiệu quả với hệ thống cảng biển và các khu công nghiệp trên địa bàn Thành phố và trong toàn khu vực.
“Từ những ý tưởng hôm nay, chúng ta có thể cùng nhau hình thành những dự án cụ thể, các sáng kiến thiết thực và chương trình hợp tác dài hạn. Điều này sẽ góp phần đưa Việt Nam và TP.HCM trở thành trung tâm logistics xanh, thông minh, kết nối số của toàn khu vực”, ông Cường nói.
Bà Đặng Minh Phương, Chủ tịch Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM đánh giá ngành logistics Việt Nam đã phát triển rất nhanh và đóng góp khoảng 4% đến 5% vào GDP. Ngành này hiện tăng trưởng khoảng 14% đến 16% mỗi năm, từ năm 2007 cho tới 2023.
Thị trường kinh tế cảng biển hiện nay có giá trị khoảng 52 tỷ USD vào năm 2025, và kỳ vọng sẽ đạt 72 tỷ USD vào năm 2030, với tỷ lệ phát triển gộp (GPR) được ghi nhận là 6,6%.
Về chỉ số phát triển logistics (LPI), Việt Nam hiện xếp hạng 43 trong số 139 quốc gia, và thứ 5 trong ASEAN. Nếu nhìn tới năm 2030, logistics và giao nhận Việt Nam được ước tính sẽ phát triển với mức tăng trưởng gộp là 6,7%.
Nhìn chung, sự biến động cho thấy việc cải thiện chưa đồng đều, nhưng ngành vẫn đang phát triển. “Chúng ta đang có tiến triển trong việc nâng cao hiệu suất và tích hợp với các chuẩn mực quốc tế, đạt được tính cạnh tranh tốt”, theo bà Đặng Minh Phương.
Bà Phương đánh giá xu hướng logistics xanh và số hóa phù hợp với chính sách của Việt Nam. Việt Nam có cơ hội bứt phá bằng cách áp dụng công nghệ cảng thông minh và cơ sở hạ tầng xanh để tăng cường tính cạnh tranh.
Những cơ hội này cho thấy Việt Nam đang tăng trưởng nhanh chóng trên bản đồ thương mại thế giới, sẵn sàng bước sang giai đoạn phát triển cao hơn.
Tuy nhiên, năng lực cơ sở hạ tầng và tình trạng ùn tắc giao thông vẫn đang là hạn chế lớn. Nhiều tuyến đường đang đối mặt với ùn tắc triền miên.
Do vậy, với tầm nhìn hướng tới 2030 - 2035 là xây dựng một hệ thống cảng và logistics của Việt Nam hiện đại hơn, xanh hơn, và cạnh tranh hơn, cần được xây dựng trên ba trụ cột chính. Đó là: xây dựng cơ sở hạ tầng và kết nối đẳng cấp thế giới; phát triển xanh và bền vững; xây dựng hệ sinh thái thông minh và kỹ thuật số. “Ba trụ cột này sẽ định hình hệ thống logistics Việt Nam trở nên xanh hơn và thông minh hơn vào năm 2030”, bà Phương cho hay.
Để thực hiện hóa tầm nhìn này, quy hoạch phải có sự tương thích giữa các cảng với chiến lược phát triển cảng, hành lang logistics, và công nghiệp nhằm giảm ùn tắc và nâng cao hiệu quả.
Đặc biệt thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) và thu hút đầu tư tư nhân. Việt Nam cần có nhiều ngân sách hơn để xây dựng cơ sở hạ tầng về logistics và khu vực; sự tham gia của khu vực tư nhân là vô cùng quan trọng.
Ngành logistics và cảng biển Việt Nam có một cơ hội quan trọng và đóng vai trò chiến lược trong tương lai kinh tế quốc gia. Nếu có kế hoạch tốt, chuyển đổi số, phát triển xanh và đối tác mạnh, Việt Nam có thể trở thành một trung tâm logistics hàng đầu ở châu Á.
Trọng Tín