Chuyên gia: Luật hóa xử lý nợ xấu có 'độ trễ' đến năm 2026

Chuyên gia: Luật hóa xử lý nợ xấu có 'độ trễ' đến năm 2026
12 giờ trướcBài gốc
Xử lý nợ xấu theo hướng bền vững hơn
Trong báo cáo Góc nhìn Xếp hạng Tín nhiệm mới công bố, các chuyên FiinRatings cho biết Nghị quyết 42/2017/QH14 được ban hành trong bối cảnh nợ xấu tăng mạnh, nhằm trao quyền cho các Tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm, góp phần đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ.
Sau hơn 6 năm triển khai, nghị quyết mang lại hiệu quả nhất định nhưng vẫn tồn tại hạn chế về phạm vi áp dụng và tính thí điểm. Vì vậy, việc luật hóa Nghị quyết 42 vào Luật Các TCTD (sửa đổi 2025) là bước đi tất yếu, đóng vai trò then chốt trong việc hoàn thiện cơ chế xử lý nợ xấu.
Luật hóa xử lý nợ xấu có 'độ trễ' đến năm 2026. Ảnh BTC.
Dẫn số liệu từ báo cáo FiinGroup, trong giai đoạn áp dụng Nghị quyết 42 (15/8/2017-31/12/2023), toàn hệ thống đã xử lý khoảng 443.800 tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết (không gồm nợ xấu xử lý bằng dự phòng rủi ro), bình quân 5.800 tỷ đồng/tháng, cao gấp 2,5 lần giai đoạn 2012- 2017 (2.200 tỷ đồng/tháng), cùng với tỷ lệ khách hàng tự trả nợ tăng từ 22,8% lên 36,4%.
Cũng theo FiinGroups, việc luật hóa Nghị quyết 42 là một bước đi đúng hướng, góp phần cải thiện khung pháp lý trong xử lý nợ xấu, nhưng có thể chưa sớm tạo ra tác động toàn diện khi nhiều thách thức vẫn tồn tại.
Cụ thể, FiinRatings đánh giá rủi ro pháp lý và tranh chấp vẫn là điểm nghẽn lớn nhất trong thực tiễn xử lý nợ xấu.Các vướng mắc chủ yếu liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm, định giá tài sản, cũng như thẩm quyền xử lý khi có nhiều chủ nợ cùng tham gia.
Trong thực tế, không ít trường hợp ngân hàng gặp khó khăn khi thu giữ tài sản do phải chờ xác minh và hỗ trợ từ cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương. Ngân hàng Nhà nước cũng ghi nhận nhiều hồ sơ xử lý nợ bị đình trệ do chậm trễ trong việc xác minh thông tin khách hàng.
Một thách thức khác là sự thiếu đồng bộ giữa các luật hiện hành. Cơ chế của Nghị quyết 42 – dù đã được luật hóa – vẫn có những điểm mâu thuẫn hoặc chưa được tích hợp đầy đủ với Bộ luật Dân sự, Luật Thi hành án hoặc Luật Tố tụng hình sự. Điều này dẫn đến quy trình thu hồi nợ xấu còn chưa thật sự nhất quán và có thể làm giảm hiệu quả trong quá trình triển khai.
Từ góc nhìn thực tiễn, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhận định, việc luật hóa Nghị quyết 42, đặc biệt tại Điều 198a của Luật TCTD sửa đổi 2024 cho phép các TCTD được quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở pháp lý quan trọng hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu.
Trước đây, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã cho phép thí điểm việc thu giữ tài sản bảo đảm, nhưng đến cuối năm 2023, Nghị quyết này hết hiệu lực, khiến các TCTD gặp nhiều khó khăn trong thu hồi nợ. Không ít trường hợp khách hàng không có ý thức trả nợ, chưa tự nguyện bàn giao tài sản dù tài sản đó đã được thế chấp hợp pháp, dẫn đến quá trình xử lý nợ kéo dài.
“Luật mới quy định rõ hơn quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD, đồng thời giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết việc thực hiện. Đây được xem là bước tiến quan trọng giúp các ngân hàng chủ động hơn trong xử lý nợ xấu, khơi thông dòng vốn bị ách tắc”, ông Hùng chia sẻ trên Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.
Tuy nhiên, ông Hùng nhấn mạnh, ngân hàng không mong muốn phải thu giữ tài sản mà kỳ vọng khách hàng thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, hoặc trong trường hợp không còn khả năng thanh toán, tự nguyện bàn giao hoặc phát mại tài sản để xử lý nợ. “Khi ý thức trách nhiệm và tuân thủ pháp luật của người vay được nâng cao, việc thu hồi và xử lý nợ xấu sẽ hiệu quả hơn, góp phần đưa dòng vốn quay trở lại nền kinh tế, tạo điều kiện giảm chi phí vốn và hạ lãi suất cho khách hàng”, ông Hùng chia sẻ thêm.
Liên quan đến công tác thi hành án, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng thẳng thắn nhìn nhận, hiện vẫn còn nhiều vụ việc bản án đã có hiệu lực nhưng việc thi hành rất khó khăn do nhiều nguyên nhân: người vay bỏ trốn, chống đối, hoặc cơ quan thi hành án chưa có biện pháp kiên quyết. Do vậy, thời gian tới cần nâng cao trách nhiệm của cả người thi hành án và người bị thi hành án. Chỉ khi việc thi hành án được thực hiện hiệu quả thì quyền thu giữ tài sản bảo đảm của ngân hàng mới phát huy được hiệu quả, góp phần đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu.
Cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý, để giảm thiểu nợ xấu phát sinh, các ngân hàng cần tập trung nâng cao chất lượng thẩm định, đánh giá phương án vay và hiệu quả dự án kinh doanh. Tài sản bảo đảm chỉ là yếu tố hỗ trợ, quan trọng hơn là xác định được khả năng hoàn vốn của phương án kinh doanh. Khi thẩm định chặt chẽ, nợ xấu phát sinh sẽ giảm đáng kể, giúp hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn hơn.
Luật hóa xử lý nợ xấu có 'độ trễ' đến năm 2026
Theo FiinRatings, việc luật hóa Nghị quyết 42 cho thấy nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý nhằm xử lý căn cơ các điểm nghẽn về nợ xấu. Tuy nhiên tác động tích cực của việc luật hóa sẽ cần một khoảng thời gian nhất định để mang lại kết quả rõ rệt vào thực tiễn hoạt động của hệ thống ngân hàng. “Chúng tôi cho rằng tác động tích cực dự kiến sẽ chỉ thực sự phát huy hiệu quả từ nửa cuối năm 2026, khi khuôn khổ pháp lý mới đã vận hành ổn định và các tổ chức tín dụng đã có đủ thời gian điều chỉnh quy trình thu hồi nợ xấu để phù hợp theo quy định”, FiinRatings nhận định.
Trong khi đó, PGS.TS Đỗ Hoài Linh, Viện Ngân hàng Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định về việc luật hóa Nghị quyết 42. Chia sẻ trên VTV.vn, PGS.TS Đỗ Hoài Linh cho biết: "Việc thu hồi tài sản bảo đảm luôn luôn là những hoạt động rất dễ gây xung đột, rất cần các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phải đào tạo đội ngũ thu hồi nợ ngoài nghiệp vụ và chuyên môn có tinh thần hợp tác, giảm việc xảy ra xung đột đến mức tối thiểu".
Theo chuyên gia, để các ngân hàng có thời gian điều chỉnh quy trình xử lý nợ xấu theo quy định mới, cũng phải ít nhất tới nửa cuối năm tới năm 2026, Nghị quyết 42 mới có thể thực sự ghi nhận tác động đáng kể.
Trên thế giới, việc luật hóa cơ chế xử lý tài sản bảo đảm ngoài tố tụng cũng đã được thực hiện tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Ví dụ, tại Hong Kong (Trung Quốc), được quyền thu giữ và trong một số điều kiện nhất định, bán tài sản thế chấp mà không cần khởi kiện ra tòa. Hay tại Australia, bộ luật có hiệu lực từ 13 năm trước, năm 2012, đã quy định quyền được thu giữ tài sản thế chấp bằng bất kỳ phương pháp nào được pháp luật cho phép. Điều này cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng và từng bước rút ngắn khoảng cách pháp lý so với thông lệ quốc tế.
Với nội tại nền kinh tế Việt Nam, việc có cơ chế xử lý, thu hồi tài sản bảo đảm sẽ giúp ngân hàng tiết kiệm đáng kể cả thời gian và chi phí, qua đó có dư địa để giữ mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp như hiện nay. Nhìn rộng hơn, mấu chốt là duy trì một tỷ lệ an toàn vốn để toàn hệ thống ngân hàng củng cố sức chống chịu trong dài hạn. Do đó, vẫn cần thêm những cơ chế để tiếp tục tăng cường bộ đệm vốn, đặc biệt là trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nhanh để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.
Đông Bắc
Nguồn Doanh Nhân VN : https://doanhnhanvn.vn/chuyen-gia-luat-hoa-xu-ly-no-xau-co-do-tre-den-nam-2026.html