Chuyện học xưa & nay: Giai thoại anh em 'Trạng ăn - Trạng chữ'

Chuyện học xưa & nay: Giai thoại anh em 'Trạng ăn - Trạng chữ'
4 giờ trướcBài gốc
Đình làng Mộ Trạch - quê hương Trạng nguyên Lê Nại và Hoàng giáp Lê Tư.
Thế nên trong dân gian mới có câu: “Trạng ăn - Trạng chữ, Trạng nào giỏi hơn?”.
Vì ăn khỏe “mười tám bát cơm, mười hai bát canh” nên Tiến sĩ Lê Nại được dân gian gọi là “Trạng ăn”, còn người em là Lê Tư vì nổi tiếng thần đồng “bụng đầy kinh luân” nên người đời phong là “Trạng chữ”. Chuyện thú vị về anh em Lê Nại - Lê Tư không chỉ là chuyện vui về ăn uống, mà còn là một bài học về phương pháp học cũng như sự phân định cao - thấp trong thi cử.
Mười tám bát cơm, khôi nguyên chiếm bảng
Theo các nguồn sử liệu và gia phả, anh em Tiến sĩ Lê Nại - Lê Tư, người thôn Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, sau đổi là huyện Bình Giang, Hải Dương (nay là xã Đường An, TP Hải Phòng). Gia đình hai vị đại khoa có nguyên quán ở hương Lão Lạt, Thuần Lộc (Thanh Hóa), là con thứ của cụ Lê Đạc, làm quan tại phủ Thượng Hồng.
Theo “Lê thị gia phả sự tích ký”: “Bình sinh cụ Lê Đạc sống rất thảo hiền, thường về quê xây từ đường, đặt ruộng thờ giao cho làng Lão Lạt trông nom thờ phụng. Cụ được trao chức Đồng Tri châu”. Anh em Lê Nại - Lê Tư từ nhỏ đã theo cha sống tại Mộ Trạch, và đều trở thành những người giỏi chữ nghĩa trong “cái nôi” học tập nổi tiếng.
Tương truyền, Lê Nại khôi ngô tuấn tú nhưng lại có sức ăn hơn người. Tuy cha làm quan, gia đình có chút điều kiện nhưng lại hóa nghèo vì sự ăn khỏe của Lê Nại. Khi ông lớn lên, gia đình không đủ gạo ăn nên ông vừa học vừa nhận dạy thêm con em trong làng để có thêm tiền “độ khẩu”.
Chính vì ăn khỏe nổi tiếng nên Lê Nại được dân gian gọi là “Trạng ăn” và xuất hiện trong nhiều câu chuyện liên quan đến ăn uống. Điển hình là chuyện mẹ vợ chuẩn bị ba mươi suất ăn sáng để đón ba mươi thợ vạt bờ cuốc góc, Lê Nại xin làm thay những người đó rồi chén sạch xong lăn quay ra ngủ.
Mờ sáng Lê Nại vẫn ngáy khò khò. Mẹ vợ gọi, cậu rể choàng tỉnh vác dao phát và cuốc lao ra đồng. Lúc dùng dao, lúc dùng cuốc, Lê Nại làm nhanh như chớp, loang loáng hết bờ ruộng này sang bờ ruộng khác, cá tôm thấy động chạy không kịp, chết nổi lên đầy mặt nước, người làng ra vớt lên gánh từng gánh mang về. Tuy nhiên đó chỉ là giai thoại vui, có phần nói quá nhằm thể hiện cho sức ăn và sức làm việc của Lê Nại. Còn giai thoại dưới đây, được nhiều người cho là thật hơn với cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Tân Mùi (1511) - khoa “Trạng chữ” Lê Tư đỗ Hoàng giáp.
Đó là trong thời gian làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, quan Thượng thư Vũ Quỳnh phát hiện có một học trò cùng làng với mình tên là Lê Nại, dù thông minh nhưng lại rất nghèo. Thấy tài học của Lê Nại, quan Tư nghiệp Vũ Quỳnh tìm cách giúp đỡ và gả luôn cô con gái yêu cho Lê Nại.
Lê Nại sau khi lấy vợ thì ở rể, nhưng Vũ Quỳnh thấy con rể tối ngày không để ý đến việc đèn sách thì lấy làm lạ, bèn đến gặp ông thông gia để hỏi. Thân phụ Lê Nại là ông Lê Đạc hỏi rằng: “Thưa ngài, vậy từ khi cháu sang ở bên quý phủ thì sự ẩm thực thế nào?”. Vũ Quỳnh đáp rằng: “Theo lối thanh đạm của nhà Nho thì mỗi bữa ăn cũng chẳng mấy! Nên hàng ngày nấu theo lệ thường”. Ông thông gia giải thích: “Sức ăn của cháu nó khác với người thường, cho ăn ít nên cháu không vừa lòng đó chăng?”.
Quan Thượng thư Vũ Quỳnh về bảo người nhà tăng bữa ăn gấp đôi thì thấy Lê Nại cầm sách đọc vài lượt, tăng bữa ăn gấp ba thì Lê Nại học đến trống tư. Thấy con rể ăn khỏe quá, bố vợ liền quyết định nấu nồi năm, thì Lê Nại học suốt đêm. Ba năm sau, Lê Nại thi Hội đỗ Hội nguyên, đến thi Đình cũng đỗ đầu - tức Trạng nguyên.
Đặc biệt trong các kỳ thi, Lê Nại phải qua năm trường và đều đỗ thủ khoa. Từ đó, dân gian gọi ông là “Trạng ăn” và lưu truyền câu thơ: “Mộ Trạch tiên sinh/ Ăn khỏe nổi danh/ Mười tám bát cơm/ Mười hai bát canh/ Khôi nguyên chiếm bảng/ Trên cả quần anh/ Bởi nhiều súc tích/ Nên phát tung hoành”.
Tên của Hoàng giáp Lê Tư đặt trong đình làng Mộ Trạch.
Bảng vàng nối dõi cửa đầy xuân
Theo các tài liệu đăng khoa lục, tại khoa Ất Sửu năm Đoan Khánh thứ 1 (1505) đời Lê Uy Mục, Lê Nại tham gia ứng thí đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên). Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” thì 9 khoa thi những năm 1469, 1472, 1484, 1490, 1493, 1499, 1505, 1508 và 1634 đều được dựng bia nhưng nay không thấy có.
Tuy nhiên, trong sách “Kiến văn tiểu lục”, nhà bác học Lê Quý Đôn xác nhận: “Lê Nại đỗ Trạng nguyên khoa Ất Sửu (1505), làm quan tới chức Hữu hộ. Lê Nại thường làm thơ tự tán mình... đỗ đầu khoa bảng, danh tiếng nêu cao, súc tích đầy đủ, phát triển dồi dào. Sau ông thành đạt đúng như đã nói”.
Đương thời khi làm quan, ngoài chức trách đã hết lòng thể hiện, Lê Nại luôn quan tâm đến quê hương. Ông cấp tiền để tu bổ từ đường, sửa chữa đình Lão Lạt. Ngoài ra, ông còn cấp tiền cho làng lập quỹ hỗ trợ những nho sinh nghèo hiếu học.
Tháng 3/1532, Trạng nguyên Lê Nại qua đời tại kinh thành Thăng Long. Nhà vua thương tiếc cho lập đền thờ ông ở làng Lão Lạt để con cháu mang linh cữu về quê an táng đồng thời truy tặng tước Đạo Trạch bá, thuộc hàng tam phẩm.
Ông có con trai tên là Lê Quang Bí đỗ Hoàng giáp khoa Bính Tuất (1526), sau trải qua các chức Hàn lâm viện hiệu lý kiêm tư vấn, rồi được bổ làm Sơn Tây hiến sát sứ, Tuyên Quang đạo Thừa ty tham chính, Ngự sử đài, thiêm đô ngự sử kiêm Tư trung doãn Tả thị lang Lại bộ.
Lê Quang Bí là một hiền nhân hiếm có, được người đời ví là “Tô Vũ nước Nam” bởi ông có chuyến đi sứ nhà Minh kéo dài tới 18 năm. Sách “Hoa Việt thông sử lược” của hai tác giả Sông Bằng và Vân Hạc kể lại giai thoại khi Lê Quang Bí bị giữ ở Nam Ninh, ông vẫn điềm tĩnh không hề sợ hãi. Những ngày trời nắng, ông lại nằm phơi bụng ra ngoài trời. Người Minh hỏi thì ông vỗ bụng nói: “Tôi phơi sách trong này cho khỏi mốc”.
Lê Quang Bí cũng có thơ vịnh về cha mình - Trạng nguyên Lê Nại, rằng: “Rộng rãi còn thêm tính nết thuần/ Thiên tài muộn phát chắc mười phân/ Đã đem danh vọng trùm thiên hạ/ Còn lấy thi thư hóa vạn dân/ Cây đúc tốt tươi đời hái quả/ Bảng vàng nối dõi cửa đầy xuân!/ Cho hay phúc trạch bao giờ cạn?/ Hán ví Vu Công, Tống Đậu Quân”.
Khu vực nhà bia ở miếu Mộ Trạch, nơi vinh danh Tiến sĩ Lê Nại - Lê Tư và các vị đại khoa của làng.
Thần đồng tự phụ và bài học về sự khiêm nhường
Nếu như Lê Nại được ví là “Trạng ăn” thì em trai ông là Lê Tư nổi tiếng thần đồng lại được dân gian gọi là “Trạng chữ”. Ngay từ thuở nhỏ, Lê Tư đã nổi tiếng hay chữ nhưng cũng nổi tiếng tự phụ để rồi phải trải cảnh chua chát của kẻ có tài mà hỏng thi.
Sách “Công dư tiệp ký” có đoạn chép chuyện như sau: Lê Tư, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng nên thường hay tự phụ, vì thế Lê Nại ông muốn tìm cách hạn chế bớt đi. Trong khoa thi Hội năm Ất Sửu (1505), cả hai anh em cùng ứng thí. Giữa kỳ làm bài thứ nhất, Lê Tư quên sách bèn lân la hỏi anh.
Lê Nại nói: “Kỳ này tôi và chú cùng thi, nếu tôi lại chỉ cho chú thì còn bảo thi cử với ai nữa”. Lê Tư tức giận nói: “Thôi thì khoa này tôi cho anh chiếm giải trước vậy”. Nói xong, ông liền gỡ phăng lều chõng ra về. Tới nhà thì đã đến canh ba, không dám gọi cửa mà nằm ngủ ngoài hiên. Lúc ấy, thân mẫu của ông đang nằm ngủ trong nhà, mơ thấy thần nhân bảo: “Ngoài hiên đang có ông Hoàng giáp, sao bà không mở cửa đón vào”.
Bà sực tỉnh, nghĩ rằng hai con mình đang đi thi Hội, hiện đang ở kinh đô, vậy thì có vị Hoàng giáp nào đang ngủ ở ngoài hiên? Bà mở cửa để coi thì thấy một người đang ngủ lăn ra trước hiên nhà mình, liền đánh thức dậy, lúc ấy mới hay là cậu Tư, con trai của mình. Bà hết sức ngạc nhiên, còn Lê Tư thì kể lại đầu đuôi câu chuyện thi cử. Nghe xong, bà nói: “Đó là tại con học chưa đến nơi đến chốn. Từ nay con phải cố gắng hơn nữa”.
Ông nghe lời mẹ dạy, vội vàng đi vào nhà, đốt đèn mở sách mà học. Bà thấy thế, mỉm cười nói rằng: “Bởi mới hỏng thi nên nhất thời tức khí mà học, chỉ sợ không được như vậy mãi thôi”. Ông thưa: “Thưa mẹ, từ nay về sau mẹ sẽ thấy con cứ thế này mãi mãi”.
Từ đấy, ngày cũng như đêm, hầu như không lúc nào ông rời quyển sách. Còn Lê Nại, từ khi đỗ Trạng Nguyên, được cho giữ chức Giảng quan ở Quốc Tử Giám, không ít sĩ tử đã nhờ ông mà thành đạt. Lê Tư ra kinh đô, đón đường mà nói với các sĩ tử rằng: “Ta chính là bồ chữ, nếu các anh muốn hỏi gì, cứ đem sách tới đây ta chỉ cho”.
Sĩ tử phần nhiều đã nghe tiếng ông nên muốn thử xem tài học ông ra sao, bèn kéo đến nơi ông ở là khu Chợ Dừa để hỏi kinh sách. Họ hỏi tới đâu, ông trả lời tới đó, cứ thế thao thao bất tuyệt. Có người đem cả sách vở của Trung Quốc và của chư tử ra hỏi, ông cũng giảng giải tinh tường, khiến cho ai ai cũng khiếp phục, kéo nhau đến chỗ ông. Quốc Tử Giám vì thế mà vắng người.
Anh ông là Lê Nại thấy vậy thì can: “Chú có tài học, lo gì không đỗ cao mà lại đi làm cái chuyện vô ích này. Tôi thấy việc này quan hệ tới giáo hóa của triều đình, chú đình chỉ đi thì hơn”. Ông nghe lời anh, lập tức trở về quê nhà. Đến khoa Tân Mùi (1511), ông đỗ Hoàng giáp và rất lấy làm hận vì không chiếm được khôi nguyên. Sau ông ra làm quan, được thăng đến chức Lại bộ Cấp sự trung thì mất.
Văn bia đề danh khoa thi này do Thượng thư bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu Lê Tung vâng sắc soạn, cho biết: Hoàng thượng đích thân ra bài văn sách, hỏi về đạo trị nước xưa nay… Sáng hôm sau, các viên đọc quyển dâng quyển lên đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp. Lấy bọn Hoàng Nghĩa Phú 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Bùi Doãn Hiệp 9 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Doãn Minh 35 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Văn bia đề danh cũng cho biết, Lê Tư xếp thứ 3 trong hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, sau Bùi Doãn Hiệp và Nguyễn Hy Tái.
Bàn về chuyện anh em Lê Nại - Lê Tư trong “Việt sử giai thoại”, TS Nguyễn Khắc Thuần nhận xét: Cũng là học, nhưng học để biết khác hẳn với học để đi thi. Lê Tư lúc trẻ, biết một mà chưa biết mười, được khen ngợi nên háo thắng chớ sức học chưa đủ để vượt qua kỳ thứ nhất trong số bốn kỳ thi Hội.
Giúp kẻ tự phụ nhưng tri thức chưa bằng ai, nếu mà họ đỗ thì tai họa thật khó lường, cho nên Lê Nại đã nghiêm trách em giữa trường thi là phải. Ông chẳng những là uyên bác hơn người mà công đức cũng dày hơn người, thật xứng danh vinh hiển Trạng nguyên.
“Lê Tư học chữ thì học ở thầy, nhưng học đức độ và học nuôi chí thì có lẽ là ở anh trai và mẹ. Chỉ nhận danh vọng khi có tài tương xứng với danh vọng, chỉ làm những gì chức phận của mình được quyền làm, đó là hai bài học lớn về đức độ mà anh ông đã dạy cho ông. Lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà nghiêm khắc của mẹ ông khi ông mới bị hỏng thi chính là lời giảng gọn gàng và sâu sắc về ý chí của người học trò. Anh ấy thì em ấy, mẹ ấy thì con ấy, có phải ngẫu nhiên mà một nhà lừng danh đến thế đâu”, TS Nguyễn Khắc Thuần nhận định trong “Việt sử giai thoại”.
Trần Siêu
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/chuyen-hoc-xua-nay-giai-thoai-anh-em-trang-an-trang-chu-post754159.html