Ở các bản làng của người Dao nơi núi rừng Tây Bắc, tranh thờ được coi như báu vật. Những bức tranh thiêng ấy sẽ theo suốt cuộc đời của một con người, hiện diện trong hầu hết những nghi lễ quan trọng của người Dao. Thế nhưng, để vẽ được một bức tranh thờ hoàn chỉnh, đúng quy chuẩn thì không phải ai cũng làm được. Những người thầy vẽ tranh thờ hôm nay vẫn nỗ lực giữ nghề với nhiều tâm tư.
Chúng tôi tìm đến Giàng Cài trong buổi chiều tà, gặp ông Lý Hữu Vượng - “thầy” vẽ tranh thờ có tiếng ở vùng đất Gia Hội. Trong gian phòng nhỏ, những bức tranh đủ sắc màu được ông treo trang trọng trên vách gỗ. Nhưng trên bàn làm việc, bút mực đã đóng một lớp bụi dày.
Ông Vượng tâm sự: “Từ khi vợ mất, tôi không còn vẽ tranh thờ nữa. Gia đình phải đầy đủ thì mình mới dám vẽ tranh”. Tâm sự ấy khơi gợi cho chúng tôi sự tò mò về những kiêng kị trong nghề vẽ tranh thờ.
Theo quan niệm của người Dao, tranh thờ phải đẹp và được người có uy tín vẽ, bởi bộ tranh thể hiện sự trang trọng và mang lại may mắn cho gia chủ. Khi vẽ tranh thờ phải mặc khăn áo chỉnh tề, phải kiêng kị kĩ; lập một “thư phòng” cất bút vẽ, tranh, bàn, ghế, các chất liệu màu, tránh không cho “uế tạp” của cuộc sống len vào. Nơi này, chỉ có ánh sáng và ánh nắng.
Ông Lý Hữu Vượng
Để hoàn thiện một bức tranh thờ, có khi phải mất cả tuần, thậm chí hằng tháng. Mỗi nét vẽ đều theo quy định riêng: Vị trí các vị thần, màu sắc của từng chi tiết, hình dáng áo mũ…, sai một chi tiết cũng như thất lễ với thần linh.
Chính sự khắt khe đó khiến phần lớn giới trẻ ngại học, trong khi những người già, những người am hiểu nhất thì ngày càng ít đi. Nguy cơ thất truyền nghề vẽ tranh thờ ngày càng hiện rõ.
Ở Lào Cai, những người giữ được nghề vẽ tranh thờ đa phần đều là thầy cúng hoặc xuất thân từ gia đình nhiều đời làm thầy cúng. Họ học nghề từ cha ông, rồi tự mày mò, tích lũy qua hàng chục năm.
Sinh ra trong gia đình có nhiều đời làm thầy, dạy chữ, ông Chảo Láo Chiếu ở xã Tòng Sành (huyện Bát Xát cũ) sớm quen với những trang sách cổ, với chữ Nôm Dao và những bức tranh thờ. Nhưng phải đến khi trưởng thành, ông mới thực sự nghiên cứu, gìn giữ nghề của tổ tiên.
Ông Chiếu không nhận mình là thầy giỏi, nhưng tình yêu văn hóa dân tộc thôi thúc ông phải làm điều gì đó để những tri thức của dân tộc mình không bị mai một theo thời gian. Vì thế, những lớp học vẽ tranh thờ được ra đời. Lớp học chỉ có chiếc bàn gỗ nhỏ đặt cạnh cửa sổ, học trò ngồi quanh, mỗi người một tờ giấy, một cây bút. Ông dạy họ cách “lấy tay quen nét”, kiên nhẫn từng chút.
Một trong những học trò của “thầy” Chiếu, anh Chảo Ông Kiêu chia sẻ: “Trước chưa học thì không hiểu, tưởng dễ, nhưng vẽ rồi mới biết khó lắm. Học được một chút đã thấy hay, thấy quý, nên tôi quyết phải theo thầy để học cho thạo”.
“Thầy” Lý Hữu Vượng cũng có được một vài học trò, xuất sắc nhất là anh Lý Tòn Chua. Anh Chua cho biết: “Quá trình học, tôi tự rèn luyện, học những khuôn phép mà các thầy đặt ra, biết hướng thiện, biết sống trách nhiệm với bản thân, với xã hội”.
Những lời tâm sự mộc mạc ấy phần nào cho thấy con đường học nghề vất vả, nhưng đầy ý nghĩa với những ai thực sự đam mê.
Tuy không còn nhiều người biết vẽ tranh thờ, nhưng những người tâm huyết như “thầy” Chiếu, “thầy” Vượng vẫn miệt mài với hành trình gìn giữ và trao truyền. Giữa dòng chảy ồn ào của cuộc sống hiện đại, họ vẫn âm thầm làm công việc của mình, như những “cây cổ thụ” đứng vững giữa núi rừng, chở che cho những giá trị truyền thống không bị cuốn trôi. Họ không chỉ vẽ tranh, mà còn dạy cho con cháu cách sống đúng đạo lý, sống có cội nguồn, làm đẹp cho đời.
Trình bày: Thanh Ba
Tạ Thị Hường - Nguyễn Tuấn Anh