Chuyện ở làng Đông Xá

Chuyện ở làng Đông Xá
3 giờ trướcBài gốc
Làng Đông Xá những năm gần đây rộ lên phong trào dựng nhà thờ họ. Nhà nào cũng muốn có cổng tam quan, mái đao cong, câu đối mạ vàng, bia đá khắc tên người công đức. Tự dưng, vùng quê trồng lúa lại giống như một góc cố đô Huế, chỉ khác là ruộng thì úng, người thì đói, mà đá thì chất đầy.
Ông Nguyễn Đình Lễ, trưởng họ Nguyễn, một người đàn ông ngoài sáu mươi, bụng phệ, tóc nhuộm nâu, lúc nào cũng áo sơ mi trắng nhét trong quần cứ đau đáu trước cảnh nhà nhà xây nhà thờ họ.
Hôm ấy, sau ngày mồng một, ông Lễ quyết định họp họ. Mảnh sân nhà ông chật kín, từ cụ già đến thanh niên, đàn bà đi chợ về cũng ghé. Ông đứng giữa sân, vẻ trang trọng, hai tay chắp sau lưng:
- Thưa các bác, các anh, các chị em con cháu họ Nguyễn, tôi hôm nay không họp vì chuyện mùa màng. Mà là chuyện thiêng!
Ông đưa tay chỉ vào bàn thờ sau lưng, nơi bức ảnh cụ tổ Nguyễn Đình Tĩnh nhìn xuống với vẻ trầm tư, râu dài, mắt sắc.
- Ba đêm liền, tôi mộng thấy cụ tổ. Cụ đứng bên giếng làng, mặc áo lụa, tay chống gậy, giọng đục như tiếng trống đình. Cụ bảo: "Con cháu quên ta, không hương khói, không nhà thờ, không bảng phả. Ta hổ với dòng tộc. Nếu không sửa, họ mình sẽ lụn bại".
Tiếng xì xào nổi lên. Ông Lễ tiếp tục, cụ bảo, nhớ giữ cho cụ cái cối đá xanh. Nó là vật linh thiêng cứu đói bao người. Rồi ông rút trong cặp một bản vẽ:
- Đây là bản thiết kế sơ bộ. Nhà thờ theo kiểu chữ "tam", chính điện rộng 60 mét vuông, hậu cung lát đá xanh, cổng tam quan hai tầng mái ngói mũi hài. Phía trước sẽ có hai cột đồng trụ, cao bốn mét, đỉnh chạm nghê chầu. Tất cả... là để dòng họ ta có nơi nương cậy tổ tiên, khẳng định uy danh trước các dòng họ khác.
Một thanh niên đứng lên, cười nhạt:
- Nhưng, tiền đâu mà xây, bác trưởng họ? Mấy ông nông dân như chúng cháu có khi còn chưa trả hết nợ phân bón vụ trước.
Ông Lễ cười, vẻ bao dung:
- Tiền của ai thì vẫn là tiền của cụ tổ. Tôi sẽ đi xin! Tôi đại diện họ Nguyễn gửi thư ngỏ, gửi lời cầu tâm đức đến những người thành đạt, các doanh nghiệp gốc Đông Xá, những cán bộ từng gắn bó với làng. Tôi không để các bác phải bán trâu đâu. Nhưng... góp công thì vẫn phải góp.
Minh họa: Lê Tiến Vượng
Một trung niên tên Bộ từ dưới rẽ đám đông đi lên chỗ ông Lễ, giọng nghiêm trang và đầy cảm xúc.
- Kính thưa cả họ, các cụ ta nói, có thờ có thiêng. Nơi thờ cũng phải trang trọng, trang nghiêm mới thành tâm, linh nghiệm và lời kêu cầu của con cháu mới linh ứng. Muốn xây dựng được nơi thờ cúng tổ tiên trong họ sang trọng thì ta phải có tiền, phải quyên góp.
Dừng để quan sát phía dưới vài giây, anh Bộ tiếp tục.
- Nhà cháu xin được tình nguyện làm chân thuyết khách, xin kinh phí từ các Mạnh Thường Quân. Nhà cháu tin, với sự thành tâm của mình chắc chắn sẽ được việc!
Cụ Đĩnh - người cao tuổi nhất họ - ngồi ở góc sân, chậm rãi lên tiếng:
- Cụ tổ sống tiết kiệm, gánh nước còn đi chân đất. Liệu cụ có thật sự muốn chúng ta dựng nhà cao cửa rộng giữa cánh đồng hoang không? Với lại, bao đời nay, đi xin là việc tối kỵ. Chỉ có kẻ thiếu chân, thiếu tay, thiếu mắt mới đi xin.
Không khí im lặng thoáng chốc. Ông Lễ hơi khựng lại, rồi gật đầu:
- Đúng. Nhưng, thời cụ khác thời nay. Lịch sử để lại, cụ nhà ta từng giàu nhất xã này nhưng vẫn tiết kiệm, giản dị. Nay kinh tế trong xã rùng rùng phát triển, đời sống hưởng thụ tăng không ngừng. Trần sao âm vậy, chẳng lẽ con cháu lại... để cụ nơi suối vàng trăm bề thiếu thốn, thua thiệt so với họ khác trong làng.
Bà Tâm thì thào:
- Tôi thấy lạ lắm. Đêm trước tôi cũng mơ thấy cụ tổ, mà không kể với ai vì sợ người ta cười...
Một cậu thanh niên nghe được, hỏi ngay:
- Mơ gì ạ?
- Cụ đứng ngoài cổng, khóc! Khóc! Tay cầm cây roi, đập lên tấm bia đá cũ.
Sáng hôm sau, người làng thấy bà Tâm mặc áo lam, thắp nhang khấn vái ở miếng đất dự kiến làm nhà thờ. Tấm bảng "Địa điểm xây dựng nhà thờ họ Nguyễn - giai đoạn I" được dựng lên, phông đỏ, chữ vàng chói chang giữa đồng lúa.
*
Một buổi sáng âm u đầu đông, ông Lễ và Bộ chống ô, mặc comple, tay xách chiếc cặp da bóng loáng đi ra bến xe. Trên cặp có gắn bảng đồng nhỏ: "Trưởng họ Nguyễn - Đông Xá". Ông lên thành phố, mang theo cả "tâm thư" viết tay bằng mực tím, mở đầu bằng bốn chữ vàng: "Cụ tổ báo mộng", kết thúc bằng lời khẩn khoản: "Chúng tôi không xin cho bản thân, mà xin cho sự trường tồn của truyền thống, của gốc rễ tâm linh họ tộc".
Bên trong cặp là xấp bản vẽ, hồ sơ "dự toán" in màu, dấu đỏ chồng dấu xanh, chèn giữa là mấy lời giới thiệu viết nguệch ngoạc nhưng có ký tên một người từng làm ở sở văn hóa. Mọi thứ đều được ông Lễ chuẩn bị kỹ lưỡng như một chiến dịch. Bởi, với ông, ăn xin mà không khéo thì dễ bị coi thường.
Cơ quan đầu tiên mà ông Lễ và Bộ gõ cửa là Công ty TNHH Hương Phát do một người cùng quê, tên Trí, làm giám đốc. Cô lễ tân mặc váy ôm, liếc ông Lễ từ đầu đến chân:
- Bác có hẹn trước với giám đốc không ạ?
- Tôi là trưởng họ Nguyễn ở Đông Xá, đến đây với lời nhắn của tổ tiên!
Cô gái bối rối. Sau gần nửa tiếng, ông Trí mới bước ra, áo sơ mi chưa cài hết cúc, mặt ngái ngủ. Ông Trí ngồi xuống, lật qua mấy tờ giấy. Đôi mắt anh ta ánh lên chút ngờ vực:
- Cái này... bác có dự toán cụ thể chưa? Ký hợp đồng với đơn vị nào thi công?
- Tất cả đều có rồi. Thi công bảo đảm, có tâm linh đi kèm. Có cả thầy phong thủy chọn ngày, xem hướng. Thầy bảo: Nếu nhà thờ dựng xong, họ Nguyễn sẽ phát đến ba đời!
*
Trở về làng với món tiền 10 triệu được ông Trí tài trợ, ông Lễ kể lại chiến tích như một chiến binh thắng trận. Nhưng, để tạo đà cho đợt vận động thứ hai, ông cần "phép màu". Vậy là ông đến gặp thầy Quý, người đàn ông nhỏ con, râu dê, mắt láo liên, tự nhận từng "chỉ long mạch cho một khu resort ở Tam Đảo".
- Muốn người ta rút ví để xây nhà thờ họ, phải khiến họ tin cụ tổ đã "hiển linh". Thầy giúp tôi dựng một kịch bản, giá bao nhiêu?
Thầy Quý vuốt râu, cười khẽ:
- Mười triệu. Tôi cho một giấc mộng rõ như kịch sân khấu.
Hai hôm sau, bỗng có một bà góa ở làng, người từng được ông Lễ tặng mấy đấu thóc đến đình quỳ lạy khóc lóc:
- Tôi mơ thấy cụ tổ! Cụ mặc áo gấm, đứng giữa lửa. Cụ nói: "Họ Nguyễn đang rơi vào bĩ cực, vì con cháu vô ơn!". Cụ chỉ về hướng Đông, nơi định dựng nhà thờ...
Tin đồn lan nhanh như lửa đốt rạ. Người ta lại bàn tán rôm rả, người bán vàng mã bảo đã thấy lạ lắm, mấy hôm nay thắp hương đều tự dưng cháy to. Ông Lễ cười mỉm, ngồi ở hiên nhà đếm từng cuộc gọi.
Những ngày sau, ông Lễ tiếp tục rong ruổi. Có nơi ông được hứa hẹn "để xem xét". Nhưng, cũng có những "bầu sữa" dễ hút: các doanh nghiệp nhỏ làm ăn nhờ đất làng. Ông Lễ mỉm cười, bắt tay người ta rất chặt:
- Góp một phần nhỏ, để phúc ấm về sau không cạn. Ấy là lời cụ tổ dặn lại qua mộng.
Ấy nhưng, có lúc ông Lễ đã không thành công. Hôm ông và bà Nhàn khăn gói lên Hà Nội đến nhà mấy đứa cháu giàu có, nhưng cuộc gặp gỡ đều để lại trong ông nỗi buồn trĩu nặng. Tại nhà Dũng, đứa cháu gọi ông bằng bác họ. Dũng tiếp ông trong bộ pyjama, vẻ mặt mệt mỏi, những ngón tay gầy vuốt vội mái tóc rối. "Con không thể về được, ông ạ. Công việc còn bận, không có thời gian, mà mấy cái lễ, Tết hay cúng bái gì đó... toàn hình thức thôi. Mình tối giản bớt được cái nào, hay cái đó, bác ạ".
*
Sáng mồng 8 tháng Giêng, trời trong veo, đất còn thơm mùi rạ mới. Sân nhà ông Lễ dựng rạp đỏ, treo phướn vàng, loa kéo bật giọng vọng cổ và lời dẫn chương trình lễ động thổ như một đại lễ tế thần. Ông Lễ mặc áo dài xanh lam, đầu đội khăn xếp, đứng giữa sân với vẻ mặt ngời ngời sứ mệnh.
- Thưa các vị khách quý, các cụ cao niên, bà con họ Nguyễn! Hôm nay, ngày lành tháng tốt, giờ đại cát đã đến. Chúng ta chính thức khởi công xây dựng nhà thờ họ Nguyễn, biểu tượng của linh khí tổ tiên và niềm tự hào muôn đời!
Tiếng trống, tiếng pháo giấy, tiếng vỗ tay lác đác. Dưới hàng ghế, ông Nguyễn Văn Sự, cháu đích tôn đời thứ sáu lẩm bẩm:
- Chưa động thổ mà nghe như động quan. Tổ tiên có linh chắc cũng phải ngán cái trò bày vẽ này.
Sau lễ, các thanh niên được huy động đào móng. Không hợp đồng, không bảo hiểm, chỉ có lời hứa: "Làm xong được khắc tên vào bia đá, vinh dự lớn hơn cả tiền". Cái "vinh dự" đó kéo theo hàng chục thanh niên làng bỏ cả gặt vụ chiêm, bỏ cả phụ hồ ngoài tỉnh về phụ việc.
*
Ba tháng sau, khi cái nhà thờ họ đang dần hình thành thì cụ tổ hiển linh ngay. Sáng ấy, ông Lễ bước ra ngoài hiên, mắt nhìn về phía ngôi nhà thờ họ Nguyễn, lòng ông tràn ngập niềm tin, sự vui mừng. Cả dòng họ đang mong đợi lễ khánh thành vào cuối năm nay, nhưng ít ai biết rằng, mọi thứ ông làm không phải chỉ vì lòng kính trọng tổ tiên, mà là vì một mối lo sợ vô hình đang bao trùm lấy ông: Sợ sự quên lãng, sợ bị coi là một kẻ nghèo khó không thể để lại dấu ấn gì cho đời.
Bà Hân, vợ ông đến bên hỏi, giọng nhẹ nhưng đầy nghi ngại:
- Anh làm vậy có đúng không?
- Chúng ta không có cách nào khác, bà à - Ông Lễ đáp, quay lại nhìn bà, đôi mắt đầy lo âu - Nếu không làm, cả họ sẽ cười vào mặt mình, gia đình mình sẽ mất hết thể diện.
Chiều ấy, tin dữ bay về.
Trong lúc thi công trên cao, giáo đổ đánh rầm. Công trường như bãi chiến trường sau loạt pháo oanh tạc. Một số "công nhân" bị thương được đưa đi cấp cứu trong tiếng khóc lóc ỉ ôi. Ông Lễ đến thăm, tay cầm lẵng trái cây, miệng dẻo như mỡ gà:
- Tai nạn là chuyện không ai muốn. Sau này tổ sẽ độ cho nhà con hết khổ.
Mẹ Tạo ngồi góc giường, gạt nước mắt, nói khẽ:
- Thế tổ có độ luôn viện phí không, ông trưởng họ?
*
Một ngày, khi ông Lễ đang ngồi một mình dưới hiên nhà, ông nghe thấy tiếng cãi vã ầm ĩ từ phía nhà thờ. Một người đàn ông lạ mặt xuất hiện, mang theo một tờ giấy có chữ ký của những người dân trong làng, yêu cầu ông trả lại số tiền mà ông đã thu từ họ cho việc xây dựng nhà thờ. Người đàn ông này đã phát hiện ra rằng một số tiền lớn trong quỹ cúng đã bị ông Lễ biển thủ.
Đứng trước sự việc không thể chối cãi này, ông Lễ cảm thấy trái tim mình như ngừng đập. Ông lặng lẽ nhìn vào mắt người đàn ông và rồi nhìn về phía những người dân trong làng đang đứng xung quanh. Họ nhìn ông với ánh mắt thất vọng và khinh bỉ.
- Ông làm vậy để làm gì? Để duy trì cái danh vọng giả tạo mà không ai thật sự quan tâm? - Người đàn ông lạ mặt đanh thép hỏi.
Ông Lễ đứng lên, cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng trong lòng ông đang quặn thắt. Mọi thứ dường như sụp đổ trước mắt ông. Những ánh mắt từ dân làng, từ những người thân trong họ, như xoáy sâu vào tâm trí ông. Ông Lễ bối rối, đứng giữa cơn sóng dữ, không biết nên làm gì tiếp theo. Càng làm, người ta càng xì xào. Hết lớp bê tông thứ nhất, ông Lễ tuyên bố chi hết "hơn 120 triệu", trong đó 30 triệu là "tiếp khách, lễ tết, trà bánh khi đi vận động".
Cụ Đĩnh gõ ba chân gậy vào sân nhà văn hóa:
- Cái nhà thờ chưa mọc xong móng mà đã ngốn hơn trăm triệu? Tiếp khách gì mà như mở nhà hàng?
Ông Lễ đỏ mặt:
- Cụ không biết thì đừng nói. Tôi đi xin tiền là đi vì họ, chứ có bỏ túi gì đâu. Bia đá ghi tên từng người, tôi có sửa gì không?
Một người đứng lên, giọng khàn khàn:
- Có! Tên tôi góp năm triệu mà bác ghi hai. Còn tên ông Đính, người mới chết năm ngoái, lại nằm trên đầu danh sách với mười triệu. Ông ấy góp từ âm phủ chắc?
Và, chẳng hiểu từ đâu mà người ta biết việc thầy bói Quý là "nhạc trưởng" trong công trình nghìn tỷ. Ông Lễ sai Bộ đi điều tra. Thì ra cái lão thầy bói Quý bị say rượu nên nói hớ, hé lộ các bí mật về đóng kịch cụ tổ về báo mộng. Hắn đã trốn biệt lên Hà Giang. Bà góa từng "bị mộng nhập" cũng lảng đi chỗ khác...
Đêm ấy, ông Lễ ngồi một mình trong ngôi nhà thờ tổ chưa lợp mái, gió rít qua giàn giáo gỗ như tiếng ai rên rỉ. Ông đốt điếu thuốc, nghe tiếng mưa dội xuống mái nilon, mặt trầm ngâm. Mấy ngày rồi ông nhận được vài tin nhắn đòi tiền công và cả những lời đe dọa. Hiện có cả chục người trong làng vẫn chưa nhận được đồng tiền nào từ quỹ "tâm linh" của ông Lễ. Những lời đồn đại về sự bất minh tài chính, về những khoản chi tiêu mập mờ lan ra khắp nơi...
*
Sáng hôm ấy, khi ông Lễ thức dậy, ánh sáng từ chiếc đèn dầu vẫn còn le lói. Ông mở cửa, chỉ thấy những gương mặt chờ đợi của bà con, đứng lặng yên trước cửa, một không khí im lặng đầy nặng nề. Bà Tâm - người bán hương - bước lên trước, mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ.
- Ông Lễ, ông định trả lại bao nhiêu tiền cho dân làng đây? Cái nhà thờ này nào có thấy đâu, mà ông đã xài hết bao nhiêu rồi? Cứ nói đi!
Ông Lễ cố nén giận:
- Các người không hiểu gì hết! Mọi chuyện phải có thời gian. Không phải dễ dàng mà làm được như thế. Tổ tiên sẽ độ cho chúng ta nếu chúng ta kiên trì.
Bà Tâm cười khẩy:
- Kiên trì? Tất cả chúng tôi thấy rõ hết rồi, ông không thể trốn mãi được đâu!
Người trong làng kéo đến, tiếng tranh cãi dần dần to lên. Một nhóm thanh niên đột ngột xông vào nhà ông Lễ, đập vỡ mấy bình hoa, tấm ảnh tổ tiên mà ông treo trên tường.
- Trả lại tiền! Cả đời chúng tôi vất vả, mấy đồng bạc lẻ đó ông làm gì mà dám lấy? Chúng tôi đã góp hết cho ông rồi, mà giờ này thì sao?
Không lâu sau, những lá thư tố cáo được gửi đến các cơ quan chức năng. Cái mà ông Lễ gọi là "sự đóng góp tự nguyện" bị phơi bày ra ánh sáng. Lòng tham của ông bị người ta vạch trần. Những hóa đơn chi tiêu vô lý, những khoản tiền ông đã "tự nguyện" bỏ túi, tất cả đều bị lật ra trước công chúng. Đến cả việc ông khai khống số lượng công nhân và các hợp đồng không hề có thực cũng bị phát giác.
Ông Lễ bị triệu tập lên Cơ quan công an làm việc. Trong văn phòng của lực lượng chức năng, ông Lễ ngồi co rúm trong chiếc ghế sắt lạnh, mặt tái mét, lòng như thắt lại. Trong đầu ông chỉ vang lên những tiếng đập cửa, những ánh mắt nghi ngờ của bà con và cả những lời nói căm phẫn từ những người đã từng tin tưởng ông. Làng Đông Xá, nơi ông từng là người đứng đầu, giờ đã quay lưng lại với ông. Ông ngửa mặt lên trần nhà, thốt lên tuyệt vọng:
- Cụ tổ ơi!
*
Sau khi chấp hành xong án phạt tù, ông Lễ phải đối mặt với sự cô đơn và sự thật phũ phàng, bị họ mạc ruồng bỏ. Không ai nhớ đến một kẻ tình nguyện làm ăn xin tham lam như ông.
Mồng hai Tết. Ông Lễ ngồi lặng im trước bàn thờ tổ tiên. Nhà thờ họ tĩnh lặng, không một bóng người. Ngọn đèn dầu leo lét, ánh sáng mờ mờ chiếu lên những tấm di ảnh của tổ tiên. Ông không cảm thấy niềm vui, không thấy không khí Tết xung quanh. Chỉ có sự trống vắng bủa vây.
Lòng ông nặng trĩu. Ông nhìn những chiếc chén thờ còn nguyên vẹn, không ai thắp nén hương, không ai cúi đầu tỏ lòng thành kính. Ông nhớ lại những ngày xưa, những cái Tết rộn ràng tiếng cười nói, những ngày mà con cháu quây quần bên nhau, ngồi quanh bếp lửa ấm cúng.
Nỗi buồn như cục đá đè nặng lên ngực ông. Mình có làm sai không? Ông ngồi im, đôi mắt mờ đi theo làn khói hương. Chưa bao giờ ông cảm thấy cô đơn đến thế. Ông nhớ về những người đã khuất, cảm nhận như họ đang dõi theo ông...
Chiều nay, theo thói quen, ông Lễ lại ngồi trước thềm, nhìn hoàng hôn xuống thấp, ông chợt nhớ tới thằng Bộ. Tiên sư cha cái thằng xui đểu. Đã thế, khi lục gia phả ông mới biết, nó có phải là người trong họ nhà ông đâu cơ chứ.
Ông lại vào trong nhà, thắp hương vái lạy cụ tổ. Nhớ về những năm tháng ấy, ông thầm nghĩ, dù sao thì ông cũng được các cụ độ, tai đã qua và nạn cũng đã khỏi! Khi ông Lễ chuẩn bị dọn lễ thì bất ngờ nghe tiếng ô tô rì rì. Ông ngẩng lên, mắt nheo lại trong làn khói mờ. Một bóng dáng quen thuộc bước ra. Đó là Dũng, theo sau là Hạnh, Tùng và mấy đứa cháu nhỏ.
Dũng bước vào, tay xách giỏ quà, đôi mắt anh giờ đây không còn vẻ lạnh lùng như trước. Anh đặt giỏ quà lên bàn, nhẹ nhàng nói: "Bác ơi, con đã suy nghĩ kỹ. Truyền thống là thứ mà không thể mất đi".
Ông Lễ đứng lặng, nụ cười mỏng manh nở trên môi. Nỗi buồn trong lòng ông dịu lại, dù chẳng cần ai quỳ lạy, chỉ cần họ nhớ về cội nguồn là đủ.
Ngày hôm sau, khi nhà thờ họ Nguyễn đã hoàn thành, ông Lễ ngồi lặng lẽ một mình trước bàn thờ tổ tiên. Ông cảm thấy rằng danh dự không thể được xây dựng trên những điều giả dối.
Có phải tôi đã sai không? Ông Lễ tự hỏi.
Nhưng, trong lòng ông cũng không có câu trả lời. Chỉ còn lại sự tĩnh lặng và một cảm giác trống rỗng mênh mông, sâu thẳm...
Truyện ngắn của Nguyễn Mạnh Thắng
Nguồn VNCA : https://vnca.cand.com.vn/truyen/chuyen-o-lang-dong-xa-i783353/