Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ngày càng chịu sức ép từ biến đổi khí hậu, thị trường tiêu thụ đòi hỏi truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn môi trường ngày càng khắt khe, việc ứng dụng tự động hóa trong nuôi thủy sản thâm canh là lựa chọn mang tính tất yếu. Đó là yêu cầu bắt buộc để nâng cao năng suất, giảm rủi ro và có thể coi đây là “chìa khóa” để phát triển sản xuất thủy sản theo hướng hàng hóa có khả năng cạnh tranh. Tỉnh Bắc Ninh có diện tích nuôi thủy sản không lớn nhưng tập trung thâm canh, mật độ cao, vấn đề này càng trở nên cấp thiết.
Sau nhiều năm nuôi thủy sản theo phương thức truyền thống, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đã bộc lộ hạn chế rõ rệt bởi môi trường nước biến động nhanh, người nuôi khó theo dõi thủ công; chi phí thức ăn chiếm phần lớn trong giá thành, do cho ăn không đúng thời điểm dẫn đến bị thất thoát. Ngược lại, những mô hình nuôi trồng thủy sản theo hướng tự động hóa bằng việc lắp máy cho ăn tự động, cảm biến, camera kết hợp phần mềm quản lý cho thấy hiệu quả cụ thể: Lượng thức ăn giảm, tỷ lệ sống tăng, dịch bệnh được cảnh báo sớm. Một số hộ cho biết năng suất tăng 10 - 15% mỗi vụ.
Tuy nhiên, việc áp dụng tự động hóa trên diện rộng vẫn gặp nhiều rào cản: Quy mô hộ nhỏ lẻ, vốn đầu tư hạn chế; kỹ năng vận hành chưa đồng đều; một số vùng ven đê hạ tầng số còn yếu khiến dữ liệu quan trắc truyền về không ổn định.
Ông Nguyễn Hồng Quang, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, nhấn mạnh: “Công nghệ chỉ hiệu quả khi có mô hình mẫu rõ ràng, có đơn vị dẫn dắt và người dân được hướng dẫn thực hành. Doanh nghiệp công nghệ phải là đối tác đồng hành, không chỉ bán thiết bị.” Từ thực tiễn đó, tỉnh cần tập trung vào một số hướng chính. Trước hết, quy hoạch vùng nuôi ứng dụng công nghệ cao gắn với hạ tầng điện - mạng - trạm quan trắc dùng chung. Đây là nền tảng để công nghệ triển khai đồng bộ. Cần thiết phải xây dựng mô hình điểm cấp tỉnh, giao cho hợp tác xã hoặc doanh nghiệp đủ năng lực vận hành...
Bắc Ninh cũng cần hỗ trợ tín dụng và khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia chuỗi, có thể áp dụng hình thức cho thuê thiết bị theo vụ để giảm áp lực vốn. Đào tạo kỹ năng số và kỹ năng vận hành thiết bị phải trở thành nội dung trọng tâm trong các lớp tập huấn, giúp người nuôi chuyển từ “làm theo kinh nghiệm” sang quản lý dựa trên dữ liệu. Cùng với đó, hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử sẽ tạo lợi thế khi sản phẩm thủy sản tham gia thị trường lớn.
Tự động hóa vừa giúp việc nuôi thủy sản giảm rủi ro, nâng năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế, đồng thời mở ra hướng phát triển mới cho nông nghiệp hiện đại. Với sự quyết tâm của chính quyền, doanh nghiệp đồng hành và người dân tích cực tiếp cận công nghệ, Bắc Ninh hoàn toàn có cơ sở trở thành địa phương đi đầu trong phát triển vùng nuôi thủy sản công nghệ cao, đủ sức đứng vững trên thị trường.
Dương Hoàn