Công bố Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp và các luật, pháp lệnh vừa được thông qua

Công bố Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp và các luật, pháp lệnh vừa được thông qua
9 giờ trướcBài gốc
Đồng chí Hoàng Thanh Tùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng chí Phạm Thanh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; đồng chí Trương Hải Long, Thứ trưởng Bộ Nội vụ; đồng chí Nguyễn Thị Liên Hương, Thứ trưởng Bộ Y tế và đồng chí Nguyễn Văn Hiển, Phó Chủ nhiệm Văn phòng quốc hội chủ trì buổi họp báo.
Đồng chí Phạm Thanh Hà công bố lệnh của Chủ tịch nước công bố Nghị quyết, luật và pháp lệnh tại buổi họp báo.
Tại buổi họp báo, đồng chí Phạm Thanh Hà đã công bố lệnh của Chủ tịch nước công bố Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh dân số.
Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm 2 điều, trong đó Điều 1 sửa đổi, bổ sung 5/120 điều của Hiến pháp (gồm Điều 9, Điều 10, khoản 1 Điều 84, Điều 110 và Điều 111); Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 16/6/2025. Nội dung cụ thể của Nghị quyết gồm:
Sửa đổi, bổ sung quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội (Điều 9 của Hiến pháp) để làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở hiến định cho việc sắp xếp, tinh gọn các tổ chức chính trị-xã hội, hội quần chúng do Đảng, nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo chỉ đạo, kết luận của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; bổ sung, làm rõ nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận là hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì.
Sửa đổi, bổ sung quy định về Công đoàn Việt Nam (Điều 10 của Hiến pháp) theo hướng kế thừa hợp lý các bản Hiến pháp trong việc ghi nhận vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam, thống nhất với quy định tại Điều 4, bảo đảm không trùng lặp với việc sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 9 của Hiến pháp.
Đồng chí Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội giới thiệu những nội dung cơ bản của Nghị quyết.
Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền trình dự án luật, dự án pháp lệnh của các tổ chức chính trị-xã hội (khoản 1 Điều 84 của Hiến pháp) theo hướng quy định các cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị-xã hội có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội để vừa thể hiện tính dân chủ, vừa phát huy được vai trò tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị-xã hội. Các tổ chức thành viên khác của Mặt trận sẽ thực hiện đề xuất, kiến nghị xây dựng dự án luật, pháp lệnh thông qua Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để phù hợp với nguồn lực và khả năng thực tế của các tổ chức này, bảo đảm chất lượng của các dự án luật, pháp lệnh.
Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức đơn vị hành chính (Điều 110 của Hiến pháp) phù hợp với chỉ đạo tại Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/5/2025 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 về tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Theo đó, các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành 2 cấp, gồm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do luật định.
Sửa đổi, bổ sung quy định về chính quyền địa phương (Điều 111 của Hiến pháp) theo hướng bổ sung quy định về chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt để có cơ sở rõ ràng cho việc tổ chức các đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt với các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội trong thời gian tới.
Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành của Nghị quyết, kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện và điều khoản chuyển tiếp để cụ thể hóa các Kết luận số 150-KL/TW, số 163-KL/TW và số 167-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan trong đợt sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã năm 2025 và kiện toàn tổ chức bộ máy của HĐND, UBND nhiệm kỳ 2021-2026 khi không còn đơn vị hành chính cấp huyện, bảo đảm các cơ quan sau khi thực hiện sắp xếp hoạt động thông suốt, đồng bộ, không để gián đoạn công việc, không để ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị, tổ chức, xã hội và người dân.
Đồng chí Trương Hải Long giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương gồm 7 chương, 54 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 16/6/2025. Theo đó, Luật đã xác lập đơn vị hành chính và mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp: Cấp tỉnh gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp xã gồm xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh. Để thể chế hóa các quan điểm, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Luật đã hoàn thiện các nguyên tắc phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp giữa trung ương với chính quyền địa phương, giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh với chính quyền địa phương cấp xã một cách khoa học, đồng bộ, thống nhất; phân định rõ thẩm quyền giữa tập thể UBND và cá nhân Chủ tịch UBND, tạo điều kiện thực hiện cơ chế điều hành linh hoạt, hiệu quả khuyến khích chủ động, sáng tạo của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Luật đã trao quyền cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong trường hợp cần thiết được trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc cấp mình và của UBND, Chủ tịch UBND câp xã, không để việc giải quyết công việc, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp bị đình trệ, ùn tắc, kém hiệu quả.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, trên cơ sở các nguyên tắc phân định thẩm quyền, Luật đã thiết kế lại toàn diện nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã), bảo đảm phân định rõ, không trùng lắp, chồng chéo về nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp chính quyền, phù hợp với mô hình quản trị địa phương hiện đại; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để các luật chuyên ngành căn cứ vào Luật này để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp xã trong các lĩnh vực chuyên ngành. Về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, Luật đã kết hợp giữa kế thừa có chọn lọc và đổi mới nhằm hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động của chính quyên địa phương 2 cấp. Theo đó, giữ nguyên cơ cấu của HĐND cấp tỉnh so với Luật số 65/2025/QH15; đối với HĐND cấp xã có 2 ban là Ban Kinh tế-Ngân sách và Ban Văn hóa-Xã hội; giữ nguyên số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp xã trong khung tối thiểu và tối đa (Riêng số lượng đại biểu HĐND của TP Hồ Chí Minh và TP Hà Nội có 125 đại biếu); quy định mang tính nguyên tắc trong Luật về việc Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban của HĐND cấp tỉnh, cấp xã, Ủy viên của Ban của HĐND cấp tỉnh có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách và giao Ủy ban Thường vụ Quôc hội quy định cụ thể số lượng Phó Chủ tịch, Phó Trưởng Ban của HĐND cấp tỉnh, cấp xã, việc bố trí đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp xã hoạt động chuyên trách để bảo đảm sự linh hoạt, phù hợp với thực tiền của đất nước, của địa phương theo từng giai đoạn phát triên của đất nước hoặc khi có chủ trương, định hướng mới của cấp có thẩm quyền thì không phải sửa đổi, bổ sung các quy định này của Luật.
Đồng chí Nguyễn Thị Liên Hương giới thiệu những nội dung cơ bản của Pháp lệnh.
Việc chuyển đổi từ mô hình chính quyền địa phương 3 cấp sang 2 cấp là một bước cải cách quan trọng và có tính chất lịch sử. Để đảm bảo sự liên tục, thông suốt và ốn định trong quá trình chuyển đổi này, Luật đã quy định đầy đủ, bao quát và có tính đến các vấn đề có thể phát sinh trong thực tiễn, từ việc tổ chức bộ máy, nhân sự cho đến quy trình xử lý hành chính và cơ chế hoạt động.
Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh dân số, quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe gồm: Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng; bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các biện pháp khác liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản. Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 3/6/2025.
Nguyễn Hương
Nguồn CAND : https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/cong-bo-nghi-quyet-cua-quoc-hoi-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-hien-phap-va-cac-luat-phap-lenh-vua-duoc-thong-qua-i771759/