Bước vào giai đoạn 2026-2030, Việt Nam đứng trước những thời cơ và thách thức đan xen trong tiến trình phát triển nhanh, bền vững và hội nhập sâu rộng với khu vực, thế giới. Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập cao vào năm 2045, đòi hỏi phải có những định hướng chiến lược, giải pháp đồng bộ và quyết liệt.
Nâng tầm vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, qua kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn triển khai tại Việt Nam, nước ta cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm để phát triển các ngành công nghiệp chiến lược (trong đó có công nghiệp phụ trợ) nhằm từng bước nâng cao vai trò và giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu ngay trong giai đoạn 2026-2030 và tiếp theo.
Một là, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách của Nhà nước về nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia. Ảnh: VGP
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cần có Chính sách công nghiệp tổng thể cho giai đoạn 2026-2030 và tiếp theo, tập trung vào xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, chuyển đổi số và có giá trị gia tăng cao: Cần hiện đại hóa hạ tầng năng lượng và hạ tầng số, triển khai mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo, điện hạt nhân quy mô nhỏ và lưới truyền tải thông minh, đồng thời phát triển các khu công nghiệp sinh thái và logistics xanh.
Cũng như ưu tiên phát triển các cụm ngành chiến lược như điện tử bán dẫn, cơ khí chính xác, vật liệu xanh, ô tô - xe điện, và chế biến nông sản công nghệ cao,… Nâng cấp công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa và kết nối sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thiết kế chính sách theo nguyên tắc ưu đãi có điều kiện, minh bạch và đo lường hiệu quả, kết hợp đầu tư công, tín dụng xanh và các cơ chế thúc đẩy thị trường carbon… thông qua khung thể chế hiện đại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực chất lượng cao và khuyến khích hợp tác công tư.
“Tầm nhìn sau 2030 hướng tới nền công nghiệp phát thải thấp, số hóa sâu, trở thành trung tâm sản xuất và thiết kế công nghệ cao trong khu vực, qua đó nâng cao năng suất, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế”, TS. Cấn Văn Lực cho hay.
Cũng theo TS. Cấn Văn Lực, cần đẩy mạnh chương trình “Make in Vietnam” trong đó, xây dựng các chính sách khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất trong nước không chỉ lắp ráp mà còn tự thiết kế, chế tạo. Tiếp tục quy hoạch và hỗ trợ phát triển các cụm công nghiệp, chuỗi giá trị theo ngành (ô tô, điện tử, năng lượng tái tạo), hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa nhà sản xuất chính và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
Đồng thời, sớm ban hành Luật năng lượng tái tạo để có cơ sở nâng cao năng lực hạ tầng năng lượng, phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao khi công nghiệp được tập trung phát triển trong giai đoạn 2025-2030.
Hai là, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước và liên doanh, liên kết với doanh nghiệp FDI.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong bối cảnh mới, trong đó tập trung vào các lĩnh vực, dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam như bán dẫn, AI, công nghệ sạch, công nghiệp tuần hoàn, thân thiện môi trường…
Ưu tiên dự án có cam kết tỷ lệ nội địa hóa cao, có chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam, hạn chế thu hút các dự án chỉ sử dụng lao động giá rẻ, không tạo liên kết với doanh nghiệp trong nước. Đảm bảo các dự án FDI đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững, thay vì chạy theo số lượng.
“Cân nhắc áp dụng các chính sách mới, bao gồm rà soát và điều chỉnh các chính sách ưu đãi thuế để phù hợp với quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu đang được nhiều quốc gia áp dụng, làm cho các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp kém hấp dẫn hơn trước. Tiếp tục thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội, bao gồm khu công nghiệp hiện đại, hệ thống logistics, trung tâm nghiên cứu phát triển và vùng nguyên liệu…”, TS. Cấn Văn Lực bày tỏ.
Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI trong đó hỗ trợ đào tạo về quản trị chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế; hỗ trợ chi phí, thủ tục chứng nhận chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đủ điều kiện trở thành nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 cho các tập đoàn FDI…
Phát triển nhân lực, vốn và công nghệ
Ba là, tập trung phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo TS. Cấn Văn Lực, nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp, gắn kết với nhu cầu của doanh nghiệp, bao gồm, tăng cường đào tạo nghề cơ khí, điện - điện tử, tự động hóa, kết hợp lý thuyết với thực hành tại doanh nghiệp; triển khai mô hình “Trường đào tạo - Viện nghiên cứu - doanh nghiệp” để bảo đảm nguồn nhân lực mới đáp ứng ngay yêu cầu sản xuất.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2026-2030 là nhiệm vụ trọng tâm nhằm thúc đẩy sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu, tăng sức mạnh chuỗi cung ứng Việt Nam. Ảnh minh họa
Đào tạo chuyên gia trong ngành công nghệ cao: Nghiên cứu bổ sung chương trình đào tạo kỹ sư chuyên sâu về bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, pin, năng lượng mới, vật liệu composite…; khuyến khích du học, chuyển giao chuyên gia, đồng thời thu hút nhân tài Việt Nam ở nước ngoài trở về làm việc trong nước.
Bốn là, nghiên cứu các chính sách hỗ trợ về tài chính - đầu tư. Thành lập, vận hành hiệu quả quỹ phát triển công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ đây là quỹ do Nhà nước chủ trì, phối hợp với khu vực tư nhân, tập trung hỗ trợ vốn dài hạn, lãi suất ưu đãi cho dự án sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu chiến lược… Đồng thời, ưu tiên các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, cam kết chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Khuyến khích đầu tư trong nước: Có phương án hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp nội địa đầu tư sản xuất linh kiện, nhất là trong lĩnh vực sản xuất ô tô, điện tử, năng lượng sạch… Phát triển các kênh huy động vốn trung và dài hạn, nhất là trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm...
Năm là, hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa. TS. Cấn Văn Lực cho hay, cần triển khai hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 03/NQ-CP và Nghị quyết 71/NQ-CP của Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung, cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Cũng như tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng và nhân lực cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, với các trọng tâm: Phát triển các khu công nghệ cao tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, tập trung bán dẫn, AI, năng lượng sạch. Thu hút chuyên gia quốc tế, doanh nghiệp công nghệ lớn và tạo môi trường cho startup Việt.
Khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng chuyển đổi số, sản xuất thông minh, AI trong quản trị sản xuất để nâng năng suất, giảm chi phí, đáp ứng chuẩn quốc tế, nâng tầm “Make in Vietnam”. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh, để thúc đẩy nâng cao năng lực sản xuất gắn với chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, Việt Nam cần sớm xây dựng chiến lược, đề án chuyển đổi xanh quốc gia giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn 2045. Song song, cần hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, khuyến khích đầu tư vào công nghiệp sạch và sản xuất thân thiện môi trường; thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, giảm phát thải carbon, xây dựng hệ thống giám sát môi trường hiệu quả nhằm tạo động lực đổi mới.
Hòa Bình