Một trong những nhiệm vụ, giải pháp đáng được nêu trong Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là: “Mở rộng các chương trình, đề án đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên, tăng chế độ hỗ trợ cho giảng viên đi học nâng cao trình độ trong và ngoài nước. Xây dựng chương trình thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với các ưu đãi vượt trội”.
Theo các cơ sở giáo dục, giải pháp này được kỳ vọng sẽ là động lực để phát triển đội ngũ giảng viên cũng như góp phần khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong các đề án trước đây.
Tạo động lực giữ chân, thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đậu Bá Thìn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức chia sẻ, phát triển đội ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học là một nhiệm vụ trọng tâm và đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển giáo dục và sự phát triển bền vững của đất nước nói chung.
Hiện nay, nhà nước đã có những chương trình hỗ trợ giảng viên nâng cao trình độ như Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030 (Đề án 89).
Hiện nhà trường có 667 viên chức, người lao động với 407 giảng viên, trong đó có 193 Tiến sĩ và 29 Phó giáo sư, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ chiếm 46,7%)
Hằng năm, nhà trường đều quy hoạch và cử 14-15 giảng viên đi đào tạo nghiên cứu sinh, đến nay nhà trường có 59 giảng viên đang học nghiên cứu sinh, trong đó có 05 giảng viên đang được đào tạo theo Đề án 89.
Theo thầy Thìn, Đề án 89 được xem là một “kênh” rất tốt trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, đề án vẫn còn tồn tại một số hạn chế như điều kiện tham gia còn khá khắt khe khi giới hạn độ tuổi dưới 40.
Bên cạnh đó, mức hỗ trợ tài chính chưa đủ hấp dẫn, trong khi thu nhập của giảng viên trẻ còn hạn chế và họ phải trang trải nhiều khoản chi phí khác khiến việc tham gia đề án chưa thật sự thu hút.
Ngoài ra, theo Thông tư số 30/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính thực hiện Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030, người học tham gia đào tạo tại nước ngoài theo đề án này sẽ được cấp kinh phí tối đa không quá 25.000 đô la Mỹ/người học/năm học (chưa bao gồm sinh hoạt phí, bảo hiểm y tế bắt buộc, vé máy bay, chi phí đi đường...) hoặc tương đương với đồng tiền của nước sở tại. Mặc dù, cơ chế tài chính đã có sự đột phá nhưng mức hỗ trợ này chưa hấp dẫn bằng các chương trình học bổng khác ở nước ngoài.
Ảnh minh họa. Website Trường Đại học Hồng Đức.
Cùng bàn về vấn đề này, theo Tiến sĩ Đỗ Thế Cần, Phó Trưởng phòng, Phòng Tổ chức - Hành chính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng - một người từng đi du học bằng ngân sách nhà nước cho biết, có thể thấy hiện nay chính sách của Nhà nước và các trường đại học đều đang ưu tiên, tập trung nhiều nguồn lực cho việc hỗ trợ cho giảng viên đi học nâng cao trình độ trong và ngoài nước.
Ngoài ngân sách nhà nước, còn có thêm các nguồn lực phong phú khác như học bổng từ chính phủ nước ngoài, quỹ hỗ trợ của doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng cũng mở ra nhiều cơ hội hợp tác, trao đổi và nghiên cứu, đặc biệt là những thành quả từ các thế hệ giảng viên được đào tạo ở nước ngoài thông qua các chương trình như Đề án 911 trước đây hay Đề án 89 hiện nay đã tạo ra mạng lưới liên kết quốc tế hiệu quả. Chính các giảng viên đi trước đã trở thành cầu nối, giới thiệu giáo sư đầu ngành, phòng thí nghiệm uy tín, cũng như mang lại nhiều sự hỗ trợ thiết thực cho các thế hệ tiếp nối.
Tuy nhiên, đề án 89 hiện nay vẫn còn một số mặt hạn chế như còn nặng về thủ tục hành chính, từ khâu đăng ký, xét chọn cho đến quản lý du học sinh, khiến quá trình tham gia trở nên phức tạp. Đồng thời, người học còn e ngại bởi những ràng buộc về công việc và yêu cầu bồi hoàn khi không hoàn thành khóa học.
Ngoài ra, mức kinh phí hỗ trợ mới chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản, chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút những nhân tài thực sự. Một vấn đề quan trọng khác là nhiều giảng viên sau khi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài trở về lại không có môi trường và cơ sở hạ tầng tương xứng để tiếp tục phát huy những gì đã được đào tạo.
“Vì vậy, để thực hiện được một trong những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết 71-NQ/TW nêu là “Mở rộng các chương trình, đề án đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên, tăng chế độ hỗ trợ cho giảng viên đi học nâng cao trình độ trong và ngoài nước. Xây dựng chương trình thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với các ưu đãi vượt trội” cần phải có sự đầu tư, triển khai một cách đồng bộ, liên tục, chú trọng đến chất lượng thay vì số lượng. Đồng thời phải linh hoạt để kịp thời đáp ứng những yêu cầu, thách thức của bối cảnh mới”, thầy Cần chia sẻ.
Thu hút giảng viên giỏi từ nước ngoài về giảng dạy cần cơ chế ưu đãi cụ thể
Theo thầy Thìn, việc mở rộng các chương trình, đề án đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên, tăng chế độ hỗ trợ cho giảng viên đi học nâng cao trình độ trong và ngoài nước không chỉ giúp họ có thêm nhiều cơ hội lựa chọn hình thức học tập phù hợp, mà còn đảm bảo cho họ một mức sống ổn định để yên tâm, toàn tâm toàn ý dành cho việc học. Điều này góp phần tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tinh thần học tập, nghiên cứu và phát triển nghề nghiệp lâu dài.
Đặc biệt, khi không còn e ngại về thủ tục hành chính hay kinh phí, giảng viên sẽ mạnh dạn hơn trong việc đi học nâng cao trình độ ở nước ngoài. Việc cử giảng viên đi đào tạo ở nước ngoài mang lại nhiều lợi ích thiết thực, họ được tiếp cận với môi trường giáo dục chuyên nghiệp, hiện đại, có cơ hội rèn luyện, nâng cao năng lực ngoại ngữ, đồng thời tích lũy những kinh nghiệm quý báu trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Những lợi ích này không chỉ giúp tăng nhanh tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học tại các cơ sở giáo dục đại học trong nước, mà còn góp phần giữ chân, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học ngoài nước về tham gia đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học trong nước.
Để tăng chế độ hỗ trợ cho giảng viên đi học nâng cao trình độ trong và ngoài nước, cần có thêm cơ chế, chính sách thiết thực. Trước hết, nên xem xét mở rộng giới hạn về độ tuổi nhằm tạo điều kiện cho nhiều đối tượng giảng viên có cơ hội tham gia.
Song song với đó, cần gắn việc cử giảng viên đi đào tạo với chiến lược tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm và sử dụng nhân tài sau khi hoàn thành khóa học, đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao được phát huy tối đa.
Ngoài ra, việc đào tạo cũng nên đi liền với kế hoạch phát triển các ngành học mới, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Bên cạnh các chính sách học bổng và hỗ trợ tài chính, cần có thêm những biện pháp khuyến khích thiết thực hơn như hỗ trợ mua, thuê nhà ở hoặc các chế độ ưu đãi khác, giúp giảng viên yên tâm gắn bó lâu dài, từ đó tạo động lực để họ toàn tâm cho công việc giảng dạy và nghiên cứu.
Đối với việc thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài, một trong những hạn chế là hiện nay cơ hội hợp tác quốc tế trong nghiên cứu tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, khiến nhiều giảng viên trẻ có năng lực lựa chọn làm việc và phát triển sự nghiệp ở nước ngoài thay vì quay về phục vụ trong nước.
Vì vậy, cần có các ưu đãi đủ mạnh như cấp nhà ở công vụ, thiết kế các gói lương cạnh tranh,trợ cấp nghiên cứu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm việc lâu dài tại Việt Nam.
Đồng thời, nên cân nhắc việc tiếp nhận, bố trí công tác cho người thân (như vợ/chồng) và hỗ trợ sắp xếp cho con cái được theo học tại các cơ sở giáo dục phù hợp.
Những chính sách đồng bộ này không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặng gia đình cho giảng viên, mà còn tạo thêm động lực để họ toàn tâm, toàn ý cống hiến cho sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu.
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng trong một buổi làm việc về trao đổi hợp tác đào tạo cùng Đại học Padjadjaran, Indonesia. Ảnh: website nhà trường.
Còn theo Tiến sĩ Đỗ Thế Cần, ngoài việc tăng cường hỗ trợ về kinh phí, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính và điều chỉnh cơ chế bồi hoàn theo hướng linh hoạt, phù hợp với từng trường hợp cụ thể để giảm bớt áp lực cho người học.
Song song với đó, nhà nước và các trường đại học cần chủ động thiết lập mạng lưới hợp tác với các trường, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới, mở rộng thêm nhiều cơ hội học tập, nghiên cứu cho giảng viên.
Ngoài việc xây dựng chính sách đãi ngộ hấp dẫn, có lộ trình sử dụng nhân lực rõ ràng thì cần đầu tư đồng bộ vào cơ sở vật chất và hạ tầng nghiên cứu, điều này góp phần tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích các giảng viên và nhà khoa học sau khi học tập ở nước ngoài trở về, an tâm phát triển sự nghiệp và gắn bó lâu dài với đất nước.
Đối với việc thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài cần có sự đầu từ toàn diện từ cơ chế chính sách, thủ tục hành chính đến các yếu tố tài chính và cơ sở vật chất.
Thực tế cho thấy, chỉ khi chính sách đãi ngộ của chúng ta đủ sức cạnh tranh, thậm chí cao hơn so với môi trường quốc tế mà các giáo sư, giảng viên giỏi đang công tác thì mới có thể thu hút họ về lâu dài .
Vì vậy, trước mắt, cần ưu tiên tập trung vào lực lượng giáo sư, nhà khoa học người Việt Nam, tạo điều kiện để họ trở về để cống hiến và gắn bó với quê hương.
Đối với các giáo sư nước ngoài khác, cần huy động thêm nguồn lực từ doanh nghiệp, kết hợp với nguồn lực của các trường đại học để hình thành cơ chế hỗ trợ tổng hợp. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đáp ứng những yêu cầu cơ bản, tạo sức hút thực sự đối với đội ngũ trí thức quốc tế.
Thu Trang