Cuộc đời bi kịch của nữ điệp viên Elli Barczatis

Cuộc đời bi kịch của nữ điệp viên Elli Barczatis
11 giờ trướcBài gốc
Khởi đầu của một điệp viên
Elli Barczatis chào đời ở Berlin năm 1912, là con gái của một thợ may danh tiếng. Từ năm 1918 đến 1926, bà theo học tại trường địa phương trước khi bắt đầu thực tập học làm nhân viên bán hàng cho một hãng xuất bản nhỏ có tên là “Banzhaff-Verlag”. Năm 1945, Elli Barczatis gia nhập Liên đoàn Công đoàn Thương mại Đức Tự do (FDGB) và năm sau đó bà tham gia vào Đảng thống nhất xã hội chủ nghĩa (SED) non trẻ mới được thành lập.
Barczatis cũng trở thành thành viên của Hội ái hữu Đức - Xô và Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Đức, nhằm củng cố uy tín của mình trong mắt giới chức trách như một mẫu người đáng tin cậy. Vào những năm sau chiến tranh, Barczatis làm nhân viên đánh máy và thư ký cho nhiều hình thức và tổ chức khác nhau.
Điệp viên Helene "Elli" Barczatis thời trẻ.
Tháng 1/1946, bà được thuê để làm thư ký cho Gustav Sobottka - một chính trị gia mà tại thời điểm đó đang làm chủ tịch của Cơ quan hành chính quản lý cung ứng Năng lượng quốc gia (NAES). Trong thời gian làm việc ở đây, bà Barczatis đã quen biết ông Karl Laurenz. Ngày 4/4/1950, bà Elli Barczatis chuyển việc và chuyển sang làm Tổng thư ký cho Thủ tướng Otto Grotewohl. Barczatis làm việc ở đó cho đến ngày bị bắt vào tháng 6/1955. Trong suốt thời gian đó bà vẫn sống với mẹ và em gái Herta trong một căn hộ ở Rudower Strabe ở Berlin-Kopenick.
Ngày 26/6/1951, Bộ An ninh nhà nước CHDCD Đức (Stasi) đã khởi động cái mà họ gọi là “Hành động nhóm “Sylvester” nhằm chống lại hai vợ chồng Elli Barczatis và Karl Laurenz. Sự vụ này liên quan đến hoạt động giám sát chuyên sâu của Stasi. Cuộc điều tra đã được kích hoạt bởi một đồng nghiệp cũ của Elli Barczatis tên là Johanna Lexow. Hai người từng có thời gian làm chung tại NAES. Lexow báo cáo những hành vi đáng ngờ của Barczatis mà bà Lexow cho là nó đã diễn ra vào buổi chiều ngày 20/12/1950 trong khoảng 15 giờ 30 phút chiều đến 18 giờ chiều trong một quán cà phê gắn liền với nhà hàng của một trung tâm phân phối bán lẻ.
Bà Lexow thấy Barczatis có những hành động khó hiểu với một gã lăng nhăng tên là Karl Laurenz. Khi đến quán cà phê, bà Lexow phát hiện việc Laurenz đang ngồi một mình, ẩn hiện sau một cây cột. Lexow cho rằng anh ta có lẽ đang đợi người bạn gái lâu năm của mình, người được gọi với biệt danh “Quý cô Rettschlag”.
Lexow cũng nhìn thấy Elli Barczatis (người mà bà biết giờ đây đang làm thư ký của Thủ tướng Otto) đang ngồi ở chiếc bàn riêng cách đó một khoảng. Tuy nhiên, lúc này Laurenz đột nhiên đứng dậy, rời khỏi bàn, thanh toán hóa đơn, trao đổi ánh mắt với Barczatis và rời quán cà phê. Tiếp đó, Elli Barczatis tiến tới một cái túi lớn mà bà mang theo bên mình, móc ra một bó giấy tờ dày cộm rồi đặt nó trong một chiếc túi khác, và rời quán cà phê mà không cần trả tiền. Nhưng rồi Barczatis lại quay về quán cà phê và đặt một chiếc túi nhỏ hơn trong túi lớn, trò chuyện với một người phụ nữ ngồi cùng bàn mà bà vừa ngồi hồi nãy.
Lexow suy luận rằng Barczatis đang trao tài liệu cho đối tượng tình nghi. Vài ngày sau đó, bà Joanna Lexow báo cáo những gì đã thấy tại nơi làm việc của mình, những lo lắng của bà đã được chuyển cho Bộ An ninh nhà nước. Những tập hồ sơ của Stasi từ thời điểm đó đã chỉ ra rằng người cung cấp thông tin của họ, Johanna Lexow, hoạt động bằng bí danh “Grunspan”.
Karl Laurenz là ai ?
Trên thực tế, ngay từ mùa Thu 1949, Karl Laurenz và Elli Barczatis đang yêu nhau. Lúc đó, khi họ bị phát giác có những hành vi kỳ lạ trong quán cà phê, Laurenz vẫn chưa bị xác định là gián điệp mặc dù thi thoảng bị tố là có những hành vi không đứng đắn với các nữ đồng nghiệp: đó có thể là lý do giải thích tại sao nó lại gây chú ý với bà Johanna Lexow khi bà nhìn thấy Laurenz đang ngồi tại một cái bàn nhỏ đằng sau cây cột trong quán cà phê. Năm 1950, Karl Laurenz bị đuổi khỏi đảng cầm quyền vì “hành vi gây tổn hại cho đảng”.
Năm 1951, Laurenz bị bắt và có thời gian bị giam giữ, sau đó ông làm đồng thời hai công việc nhà báo và phiên dịch viên. Từ năm 1952 (hoặc có lẽ sớm hơn), Karl Laurenz đã làm việc cho Tổ chức Gehlen - một cơ quan tình báo được thành lập dưới sự bảo trợ của chính quyền chiếm đóng Hoa Kỳ ở CHLB Đức. Sau này, tổ chức Gehlen đã đặt nền móng cho việc thành lập nên Cục tình báo liên bang CHLB Đức, song vào năm 1952 nó vẫn hoạt động bất thường khi phản ánh tính cách của nhà sáng lập Reinhard Gehlen.
Elli Barczatis đã toàn quyền truy cập được những tài liệu mật, có lẽ bao gồm những tài liệu mà bà đang đánh máy cho ông chủ của mình, và chuyển chúng cho tình nhân, tin rằng người đàn ông này rất cần chúng cho hoạt động báo chí. Đầu thập niên 1950, sự phân chia chính trị của Berlin vẫn chưa tương xứng với sự phân chia về mặt vật lý, còn Karl Laurenz thường xuyên đến khu vực phía Tây (sau này là Tây Berlin) để gặp Clemens Laby - liên lạc viên của ông từ Cục tình báo CHLB Đức. Theo lời khai của họ từ năm 1955 thì đôi khi Elli Barczatis đồng hành với Laurenz và tự giới thiệu là bạn gái của Laurenz với Clemens Laby; hoặc thi thoảng Laurenz đi một mình.
Có vẻ như đối với Barczatis, Clemens Laby và Karl Laurenz đơn giản là những người bạn cũ thỉnh thoảng gặp nhau để kể chuyện quá khứ. Sau này khi phải ra hầu tòa, Laurenz liên tục bị chất vấn rằng hẳn Barczatis phải biết bản chất thực sự mối quan hệ giữa ông với Laby, song Laurenz một mực nhấn mạnh rằng ông luôn giữ bí mật với bà này “vì sự an toàn của chính bà” (Clemens Laby). Barczatis chưa được đặt bí danh bởi các cơ quan tình báo phương Tây, họ xác định bà là “Ganseblumchen” (nghĩa là “Tiểu Cúc”). Để đổi lại thông tin mà ông đã cung cấp, suốt nhiều năm, Laurenz đã nhận được hàng ngàn Mark (tiền tệ Đức). Còn Barczatis được Laurenz thưởng rất hậu hĩnh bằng những món quà lớn nhỏ như sô cô la hoặc máy thu thanh.
Điều tra và xét xử
Dù đã bắt đầu điều tra vào tháng 1/1951, nhưng đến cuối năm 1954, các nhà điều tra Stasi vẫn không có bằng chứng hữu ích nào chống lại Barczatis. Thông thường khi các điệp viên được phái đi theo dõi bà thì thường bị mất dấu vết khi Barczatis thường xuyên đi tuyến đường sắt địa phương (S-Bahn) để đi vào CHLB Đức. Cả việc theo dõi hay chặn thư từ của bà đều không đưa ra được bằng chứng thuyết phục về tội trạng. Cuối cùng, Barczatis bị tóm cổ khi Stasi cất giấu một số tài liệu được chuẩn bị đặc biệt trong két sắt của Thủ tướng Otto, sau đó Barczatis đã mang những giấy tờ này về nhà.
Sau đó Barczatis khai rằng mình đã đưa những giấy tờ này về nhà cho Laurenz xem - dù tình tiết này khó mà chứng minh thực hư. Ban đầu việc bắt giữ Barczatis đã bắt đầu đưa lên lịch vào ngày 8/12/1954, song đã bị hoãn lại. Phút cuối, Elli Barczatis đã bị bắt vào lúc 17 giờ 30 phút chiều ngày 4/3/1955, trong lúc hết giờ làm việc tại văn phòng Thủ tướng.
6 giờ trước đó cùng ngày, Laurenz đã bị bắt giữ ngay trên phố gần căn nhà của mình. Ban đầu, họ (Barczatis và Laurenz) bị đưa đến đồn cảnh sát tại Berlin-Lichtenberg. 6 tháng tiếp đó họ bị giam giữ để điều tra tại nhà ngục Berlin-Hohenschonhansen. Laurenz bị thẩm vấn bởi một sĩ quan Stasi có tên là Gerhard Niebling. Buổi ban đầu, Barczatis bị thẩm vấn bởi một sĩ quan cấp dưới tên là Karl Coburger, nhưng sau ngày 23/3/1955, Niebling đã tiếp quản việc thẩm vấn Barczatis song song với Laurenz.
Vào cuối tháng 3/1955, Laurenz đã thú nhận tội lỗi nhưng sau đó đã rút lại lời thú tội của mình - so sánh với những chiến thuật mà Stasi đã sử dụng với những gì mà ông đã trải qua dưới bàn tay của mật vụ Đức Quốc xã (ĐQX) và Gestapo. Những quãng thời gian thẩm vấn dài lê thê xuyên đêm đã khiến Laurenz suy sụp. Laurenz thường bị thẩm vấn suốt 12 tiếng xuyên đêm và thường xuyên ngáp vặt vào ban ngày.
Mặc dù Stasi đã cố gắng để Barczatis - Laurenz đối nghịch nhau, và Laurenz đã rất nỗ lực nhằm minh oan cho người tình của mình nhưng đều bất thành. Sau nhiều giờ thẩm vấn cùng nhau, Barczatis đã thú nhận toàn bộ, và tại phiên tòa xét xử sau đó, bà đã tỏ ra hối hận. Ngày 17/6/1955, cuối cùng cuộc điều tra đã hoàn tất với khuyến nghị lên tòa án rằng phiên xử tiếp theo đó nên là phiên xử kín. Bản thân phiên xét xử (dù diễn ra ở Berlin) đã được tổ chức từ ngày 23/9/1955. Người ta cho rằng phiên tòa đã kéo dài xấp xỉ 13 tiếng đồng hồ và được ghi âm.
Một phiên bản ghi âm đã dược rút gọn còn 320 phút đã được tìm thấy trong lưu trữ hồ sơ Stasi sau khi nước Đức thống nhất. Thẩm phán Walter Ziegler đã chủ trì Tòa hình sự số 1. Cả Barczatis lẫn Laurenz đều không có bất kỳ đại diện pháp lý nào. Ngoài hai người họ, các công chức tòa án và các công tố viên, chỉ có các viên chức Stasi có mặt tại tòa.
Khuyến nghị ban đầu là án chung thân, song tòa đã tuyên tử hình cả hai bị cáo vì “Phong trào tẩy chay” chiếu theo điều 6 của Hiến pháp. Đây là án tử hình thứ 8 và 9 được tòa tuyên vào năm 1955. Tổng thống Pieck đã bác đơn kháng cáo xin ân xá vào ngày 11/11/1955. Lúc 3 giờ sáng ngày 23/11/1955, Karl Laurenz bị đưa ra khỏi buồng giam đi đến phòng hành quyết tại Cơ sở hành quyết quốc gia tại Dresden để lên máy chém. Elli Barczatis cũng bị đưa lên máy chém chỉ 10 phút sau đó. Những nguồn tin khác cho rằng Barczatis là người đầu tiên bị chém đầu. Biên bản hành hình ghi lại rằng việc xử tử Barczatis diễn ra trong 3 giây. Hai cái xác được hỏa táng.
Điệp viên Karl Laurenz.
Minh oan cho người đã khuất
Chỉ vài tháng sau đó công chúng mới hay tin về phiên xét xử, bản án và các vụ hành quyết. Trong suốt nửa đầu năm 1956, gia đình không hay biết gì về tung tích của Barczatis và Laurenz. Tuy nhiên, đến ngày 7/3/1956, Herta (người em gái của bà Elli Barczatis) nói với một phóng viên tờ New York Times rằng bà nghe người chị gái bị tuyên án tử vì tội “làm gián điệp”. Herta cho rằng chị mình có lẽ đã bị xử tử. Elli Barczatis được Tòa án quận Berlin chính thức phục hồi chức vụ vào ngày 28/11/2006. Ngược trở lại quá khứ, các phương tiện truyền thông khi ấy không thể đưa tin cụ thể về vụ án Barczatis bởi vì phiên tòa diễn ra sau những cánh cổng đóng kín.
Có những đánh giá trái ngược nhau về tầm quan trọng của Elli Barczatis đối với tình báo phương Tây. Có những người xác định bà là một điệp viên quan trọng. Cựu giám đốc tình báo Reinhard Gehlen (người đã cho xuất bản cuốn hồi ký của mình vào năm 1971) mô tả Barczatis là “mắt xích liên lạc quan trọng đầu tiên trong phần còn lại của nước Đức”. Sau khi Barczatis qua đời, Reinhard đã cảm ơn bà vì “cam kết tận tụy và thành công tuyệt vời”. Nhiều bình luận sau đó đã kết luận rằng Reinhard Gehlen (người có sự nghiệp tình báo đã bị mất uy tín rộng rãi trong thời gian ông chấp bút viết hồi ký của mình) phải cảm ơn Barczatis vì đã đóng vai trò quan trọng trong đơn vị tình báo CHLB Đức xuyên suốt thập niên 1950.
Kể từ khi hồ sơ về phiên tòa của Barczatis được công bố rộng rãi, người ta thấy rằng “sự thật” mà tòa án kết luận bà Barczatis chuyển cho Laurenz và người này chuyển cho tình báo CHLB Đức có thể là chương trình nghị sự liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau, chẳng hạn như lịch trình các chuyến viếng thăm chính thức của Thủ tướng Otto Grotewohl.
Có thể những thông tin về kinh tế và công nghiệp được tình báo phương Tây quan tâm hơn, chẳng hạn như sự thiếu hụt nguồn cung các vật liệu thô, hoặc thách thức liên quan đến cung cấp lương thực cho người dân… Một trong những thẩm phán đã kết tội chết cho bà Barczatis vào năm 1955 vẫn còn sống đến năm 1995, khi thẩm phán Helene Heymann (năm 1955 là thẩm phán Helene Kleine) thấy mình phải đối mặt với tòa án quận Berlin về các tội ngộ sát, giam giữ trái phép và vi phạm pháp luật. Tòa quyết định rằng bà Helene Kleine và các thẩm phán đồng nghiệp của mình đã cố ý áp dụng những hình phạt nặng không cân xứng, và bản thân bà bị kết án 5 năm tù. Tuy nhiên, bản án này đã bị đình chỉ.
Phan Bình (Tổng hợp)
Nguồn ANTG : https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/cuoc-doi-bi-kich-cua-nu-diep-vien-elli-barczatis-i762130/