Bức tranh KQKD: Eximbank lãi giảm mạnh, mất 'ngôi vương' lợi nhuận về tay ABBank; NCB lãi dương trở lại...
Báo cáo tài chính của nhóm 10 ngân hàng niêm yết quy mô nhỏ (tổng tài sản dưới 300.000 tỷ) thể hiện sự phân hóa trong tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm.
Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC.
Thống kê của người viết tại 27 ngân hàng niêm yết cho thấy tăng trưởng dư nợ cho vay bình quân hệ thống ước đạt 15%. Trong khi nhóm ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ có tăng trưởng tín dụng bình quân ở mức cao (lần lượt đạt 16,3% và 17,9%), nhóm ngân hàng nhỏ chỉ đạt tăng trưởng tín dụng bình quân 11,7%, thấp hơn cả nhóm quốc doanh. Nếu loại trừ mức tăng tín dụng đột phá 33,4% tại NCB, dư nợ cho vay của 9 ngân hàng còn lại trong nhóm chỉ đạt bình quân 9,3%, thấp hơn đáng kể so với trung vị toàn ngành.
Tăng trưởng tín dụng phân hóa là một trong những yếu tố tác động đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng nhỏ.
Một số ngân hàng nhỏ đạt tăng trưởng lợi nhuận 9 tháng đầu năm ở mức cao, cá biệt lên tới ba con số, chẳng hạn ABBank báo lãi trước thuế 9 tháng vượt 2.300 tỷ đồng, gấp gần 10 lần cùng kỳ; Kienlongbank với lãi trước thuế 9 tháng vượt 1.500 tỷ đồng, tăng 102% svck hay BVBank với lãi trước thuế 9 tháng đạt 437 tỷ đồng, tăng 140%. Tại NCB, lợi nhuận trước thuế 9 tháng đạt 652 tỷ đồng, đảo chiều mức lỗ 59 tỷ đồng cùng kỳ năm ngoái...
Đây đều là các ngân hàng ghi nhận sự tăng trưởng bứt phá của cả nguồn thu lãi và ngoài lãi trong bối cảnh quy mô tín dụng mở rộng mạnh mẽ (như trường hợp của NCB, Kienlongbank) hay thu nhập khác, đặc biệt là thu hồi nợ xấu tăng cao (như ABBank).
Trong khi đó, một số ngân hàng ghi nhận lợi nhuận đi ngang hoặc giảm so với cùng kỳ khi NIM co hẹp do ảnh hưởng từ chi phí vốn, làm giảm thu nhập lãi thuần. Tại Eximbank, lợi nhuận 3 quý đầu năm ước đạt hơn 2.000 tỷ, giảm 14% svck. Bac A Bank cũng báo lãi giảm nhẹ svck.
Eximbank mất 'ngôi vương' lợi nhuận về tay ABBank, NCB lãi dương trở lại trong 9 tháng đầu năm 2025... Ảnh: T.D tổng hợp. Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
Nếu xét về số tuyệt đối, ABBank và Eximbank là hai ngân hàng có lợi nhuận cao nhất trong nhóm nhà băng quy mô nhỏ (LNTT đạt hơn 2.000 tỷ), một phần do ưu thế tổng tài sản (hơn 200.000 tỷ) và quy mô cho vay lớn hơn số còn lại.
Còn nếu xét về tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) thì Kienlongbank là nhà băng dẫn đầu nhóm với ROA (trượt 4 quý gần nhất) đạt 1,59% trong khi Eximbank và ABBank lần lượt xếp ở vị trí thứ hai và thứ ba với ROA lần lượt 1,24% và 1,19%. Ngược lại, một số nhà băng như Saigonbank, BVBank có ROA dưới 0,5%, thấp nhất ngành, hay NCB có ROA âm do ảnh hưởng của mức lỗ ròng cao trong quý IV/2024.
Tuy vậy nhìn chung, tỷ suất sinh lời trên tài sản bình quân tại các ngân hàng nhỏ vẫn thấp hơn đáng kể so với các nhóm ngân hàng TMCP khác, đặc biệt là các ngân hàng quy mô lớn. Theo ước tính của VIS Ratings, trong giai đoạn 2020-2024, ROAA của các ngân hàng nhỏ đạt khoảng 0,6% so với mức trung bình ngành là 1,4%.
Kienlongbank dẫn đầu nhóm ngân hàng nhỏ về tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA). Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
Nhiều dự báo cho rằng triển vọng KQKD quý cuối năm của nhóm ngân hàng quy mô nhỏ sẽ tiếp tục phân hóa. Nguyên nhân một phần do áp lực suy giảm NIM bởi sự gia tăng chi phí vốn trong cuộc cạnh tranh huy động tiền gửi của toàn hệ thống, nhất là trong bối cảnh dư nợ cho vay dự kiến tiếp tục được đẩy mạnh trong các tháng cuối năm trong khi tăng trưởng tiền gửi có dấu hiệu giảm tốc trong quý III.
Tính đến hết quý III, tăng trưởng tiền gửi tại nhóm ngân hàng nhỏ ước khoảng 10%, thấp hơn khoảng hơn 2 điểm % so với tăng trưởng tín dụng và được dẫn dắt chủ yếu bởi mức tăng trưởng ấn tượng tại hai ngân hàng ABBank (+31% so với đầu năm) và NCB (+24%). Trong khi đó, một số ngân hàng trong nhóm có tăng trưởng tiền gửi ở mức thấp như PGBank (+2%), BVBank (+3%), Eximbank (+5%)...
Chất lượng tài sản phân hóa: Tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh tại NCB, ABBank; tăng mạnh tại PGBank, VietABank...
Trong khi tăng trưởng tín dụng phân hóa, chất lượng tài sản tiếp tục là thách thức lớn với các ngân hàng nhỏ. Khoảng một nửa số ngân hàng quy mô nhỏ có tỷ lệ nợ xấu (NPL) từ 3% trở lên tính đến hết 30/9/2025. Riêng Bac A Bank - với NPL 1,14% - lọt top 5 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hệ thống.
5/10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất hệ thống tính đến 30/9/2025 nằm trong nhóm các ngân hàng quy mô nhỏ. Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
3/10 ngân hàng quy mô nhỏ ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tính đến 30/9/2025 giảm so với đầu năm, trong đó NCB có NPL giảm mạnh hơn 10 điểm % về 9,12%, dù vẫn là ngân hàng dẫn đầu hệ thống về tỷ lệ nợ xấu. Hay ABBank có NPL giảm hơn 1 điểm % về 2,63% nhờ nỗ lực xử lý nợ xấu và lành mạnh hóa bảng cân đối.
7 ngân hàng còn lại có tỷ lệ nợ xấu tăng so với đầu năm, chẳng hạn PGBank (+1,28 điểm % lên 3,85%), Saigonbank (+0,44 điểm % lên 3,1%), Eximbank (+0,46 điểm % lên 2,99%). Dù là một trong những ngân hàng có chất lượng tài sản dẫn đầu nhóm ngân hàng nhỏ nhưng tỷ lệ nợ xấu tại VietABank đang có xu hướng tăng nhanh trong hai quý gần đây (+0,68 điểm % so với quý II và +1,1 điểm % so với quý đầu năm).
Trước đó, VISRatings nhận định rằng tính đến hết quý II, một số ngân hàng như PGBank, VietABank, BVBank hay Saigonbank đang có tỷ lệ hình thành nợ xấu mới thuộc nhóm cao nhất trong ngành.
Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng nhỏ diễn biến phân hóa trong 4 quý gần nhất: một số nhà băng như BAB, NCB và ABB ghi nhận NPL ổn định hoặc giảm bền vững trong khi các ngân hàng còn lại có NPL tăng so với đầu năm. Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
Nợ nhóm 5 chiếm tỷ trọng cao trong dư nợ xấu tại hầu hết các ngân hàng quy mô nhỏ. Chẳng hạn tại NCB, hơn 92% dư nợ xấu là nợ nhóm 5. Hay tại Bac A Bank, nợ nhóm 5 chiếm 80% dư nợ xấu và tại Saigonbank là 75%.
Một tín hiệu khác tiềm ẩn rủi ro suy giảm chất lượng tài sản là diễn biến tăng nợ nhóm 2 tại hầu hết các ngân hàng quy mô nhỏ như Vietbank (với nợ nhóm 2 tăng 71% so với đầu năm), Bac A Bank (+46%), Kienlongbank (+37%)...
Trong khi đối diện áp lực tăng nợ xấu, hầu hết ngân hàng quy mô nhỏ lại có bộ đệm dự phòng dưới 50% so với mức bình quân khoảng 80% của hệ thống. NCB hiện có tỷ lệ bao nợ xấu (LLR) khoảng 15% tính đến 30/9/2025, thấp nhất hệ thống. Một số ngân hàng trong nhóm cũng có LLR ở mức thấp như PGBank (32%), Saigonbank (33%), Eximbank (35%)...
Điểm tích cực là tổng dư nợ xấu của 10 nhà băng quy mô nhỏ tính đến 30/9/2025 ước khoảng 28,85 nghìn tỷ đồng, giảm nhẹ so với mức 29,91 nghìn tỷ đồng hồi cuối quý II (chủ yếu đóng góp bởi dư nợ xấu giảm gần 1.200 tỷ đồng sau 1 quý tại NCB). Điều này phản ánh đà tăng nợ xấu của nhóm ngân hàng nhỏ đã có phần chậm lại, nhưng sẽ cần thêm một vài quý trước khi đánh giá tính bền vững của xu hướng này.
Áp lực nâng chuẩn an toàn vốn
Tỷ suất sinh lời thấp tương đối, chất lượng tài sản thấp hơn trung bình ngành và khó khăn trong việc huy động vốn chủ sở hữu bởi lợi nhuận thấp và chưa đủ hấp dẫn đối với nhà đầu tư... là những yếu tố khiến các ngân hàng trong nhóm quy mô nhỏ đối diện với áp lực vốn lớn hơn các ngân hàng TMCP khác. Nhất là trong bối cảnh Thông tư 14 vừa có hiệu lực đặt ra yêu cầu cao hơn đối với các ngân hàng có CAR thấp và chưa đạt chuẩn theo lộ trình 4 năm.
Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đánh giá các ngân hàng có tỷ lệ CAR thấp trong hệ thống và chưa đạt tỷ lệ tối thiểu theo lộ trình 4 năm của Thông tư 14, bao gồm nhiều ngân hàng nhỏ như VietABank, ABBank, BacABank, PGBank...có thể phải thực hiện nhiều biện pháp để củng cố, cải thiện CAR.
Các biện pháp bao gồm tối ưu hóa hệ số rủi ro của danh mục tài sản có rủi ro (RWA); củng cố vốn tự có thông qua các đợt phát hành cổ phiếu hoặc tối ưu hóa thu chi để gia tăng lợi nhuận giữ lại; phát hành trái phiếu thứ cấp để tăng vốn cấp 2. Điều này có thể khởi động "cuộc đua" tăng vốn qua phát hành cổ phiếu của các ngân hàng hoặc tăng trưởng tích cực hơn về lợi nhuận.
Top 10 nhà băng có CAR thấp nhất hệ thống tính đến hết tháng 6/2025 có mặt 4 ngân hàng quy mô nhỏ là VietABank, ABBank, BacABank, PGBank. Ảnh: T.D tổng hợp.
Từ đầu năm đến nay, tăng vốn là một trong những tâm điểm của ngành ngân hàng nói chung; và các ngân hàng quy mô nhỏ không nằm ngoài xu hướng ấy. Nhiều ngân hàng nhỏ đã công bố các kế hoạch tăng vốn khủng, đưa vốn điều lệ vượt 10.000 tỷ, thậm chí tiệm cận 20.000 tỷ trong năm nay.
NCB hồi tháng 10 cho biết đã hoàn tất phát hành 750 triệu cổ phiếu riêng lẻ, chính thức hoàn thành nâng vốn điều lệ lên 19.280 tỷ đồng, sớm hơn 1 năm so với lộ trình đã đề ra tại Phương án cơ cấu lại. PGBank cũng đã và đang tiến hành các phương án tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu nhằm tăng vốn điều lệ lên 10.000 tỷ đồng, gấp 2,4 lần so với cuối năm 2024.
VietABank cũng được NHNN chấp thuận tăng vốn điều lệ đợt 2 trong năm nay thông qua chào bán hơn 313 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu và phát hành 20 triệu cổ phiếu ESOP nhằm nâng vốn điều lệ từ 8.163,6 tỷ đồng cuối quý III/2025 lên gần 11.500 tỷ đồng.
ABBank hồi tháng 9 đã công bố quyết nghị ĐHĐCĐ thông qua phương án tăng vốn điều lệ từ 10.350 tỷ đồng lên 13.973 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ tăng 35% thông qua hai hình thức bao gồm phát hành quyền mua cổ phần cho cổ đông hiện hữu và phát hành cổ phiếu theo chương tình lựa chọn cho cán bộ nhân viên (ESOP).
Tại ĐHĐCĐ đầu năm nay, ban lãnh đạo Bac A Bank cũng thông qua phương án tăng vốn điều lệ lên 12.350 tỷ đồng với 2 hình thức phát hành cổ phần phổ thông để chi trả cổ tức và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng cho cổ đông hiện hữu...
Việc tăng vốn điều lệ không chỉ nhằm giải bài toán chiến lược về gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn để mở rộng hoạt động kinh doanh trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt của toàn ngành, mà còn là cơ sở để ngân hàng nhỏ cải thiện hệ số CAR và tăng khả năng mở rộng tín dụng, cũng như làm dày bộ đệm dự phòng.
Tính đến hết năm 2024, tỷ lệ vốn cấp 1 bình quân toàn ngành đạt 10,4%, tuy nhiên tại các ngân hàng nhỏ, tỷ lệ này chỉ ở mức khoảng 8,7%. VIS Ratings dự báo nếu không được bổ sung vốn mới, CAR các ngân hàng nhỏ có thể sẽ giảm hơn 200 điểm cơ bản, kể cả khi đạt được các mục tiêu tăng trưởng tài sản và lợi nhuận vào cuối năm 2026.
Diên Vỹ