Đa dạng hóa sinh kế: Động lực mới cho giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2030

Đa dạng hóa sinh kế: Động lực mới cho giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2030
một giờ trướcBài gốc
Thông tin trên được nêu trong Báo cáo tham luận “Định hướng nội dung đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo giai đoạn 2026–2030” của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trình bày ngày 15/5/2025.
6.000 mô hình sinh kế tạo diện mạo mới ở nhiều địa phương
Trong 5 năm qua, hoạt động hỗ trợ sinh kế thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã lan tỏa tới 48 tỉnh, thành. Các hướng dẫn từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã giúp địa phương có cơ sở pháp lý thống nhất để phân bổ vốn và triển khai mô hình theo nhu cầu thực tế.
Nhờ đó, hơn 6.000 dự án sản xuất được hình thành, trải rộng từ trồng trọt, chăn nuôi, dược liệu đến thủy sản và lâm nghiệp. Gần 100.000 hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số được thụ hưởng; hơn 58.000 người được tập huấn kỹ thuật, quản lý nhóm hộ và tư duy thị trường.
Cây chè Shan Tuyết tại xã Quang Bình (tỉnh Tuyên Quang) đã giúp người dân nơi đây dần thoát nghèo.
Đơn cử như tại xã Quang Bình (tỉnh Tuyên Quang), 113 mô hình sinh kế triển khai trong năm 2023 đã hỗ trợ hơn 2.500 hộ. Việc tổ chức sản xuất theo nhóm, liên kết tiêu thụ giúp tỷ lệ thoát nghèo của các mô hình đạt tới 36%. Những sản phẩm đặc trưng như chè Shan Tuyết, chuối tiêu hồng hay cá linh được chuẩn hóa bao bì, gắn nhãn truy xuất và bán trên sàn thương mại điện tử. Đây là bước tiến quan trọng, đưa nông sản vùng khó tiếp cận thị trường rộng hơn thay vì phụ thuộc thương lái.
Chế biến chè Shan Tuyết sau thu hoạch tại xã Quang Bình (tỉnh Tuyên Quang).
Kết quả bước đầu cho thấy khi người dân có phương án sinh kế phù hợp, có tổ nhóm đứng ra điều phối và có doanh nghiệp bao tiêu, thu nhập của họ tăng đáng kể. Nhiều hộ đã chuyển từ sản xuất tự phát sang sản xuất hàng hóa, biết chủ động lập kế hoạch và đầu tư theo chuỗi.
Duy trì mô hình sinh kế còn nhiều thách thức
Dù đạt nhiều kết quả, sinh kế trong giai đoạn vừa qua vẫn gặp không ít trở ngại. Nhiều địa phương phản ánh việc hướng dẫn triển khai ban hành chậm, chưa thống nhất giữa các bộ ngành, khiến tiến độ thực hiện bị ảnh hưởng. Không ít dự án phải khởi động muộn do vốn phân bổ trễ, dẫn đến lỡ mùa vụ hoặc không còn đủ thời gian tổ chức sản xuất đúng quy trình.
Việc duy trì mô hình sinh kế cũng gặp thách thức khi năng lực của nhiều hộ dân còn hạn chế. Một số hộ chưa quen với việc lập kế hoạch, thiếu kinh nghiệm quản lý chi phí, thậm chí ngại tham gia tổ nhóm vì tâm lý e dè hoặc trông chờ hỗ trợ. Tại một số vùng dân tộc thiểu số, tư duy “được cấp phát” vẫn còn tồn tại, làm chậm quá trình chuyển sang hỗ trợ có đối ứng và cam kết.
Điểm nghẽn lớn khác nằm ở tổ chức trung gian. Nhiều hợp tác xã hoạt động hình thức, chưa đủ năng lực dẫn dắt sản xuất hay bảo đảm đầu vào – đầu ra. Trong khi đó, doanh nghiệp lại dè dặt khi hợp tác vì sản lượng nhỏ, chất lượng không ổn định và rủi ro cao. Đây là lý do khiến nhiều mô hình vẫn loay hoay ở khâu tiêu thụ.
Hoạt động giám sát cũng chưa theo kịp yêu cầu mới. Phần lớn địa phương vẫn đánh giá dựa trên đầu vào như số hộ tham gia, số vật tư được hỗ trợ thay vì theo kết quả cuối cùng như thay đổi thu nhập, tỷ lệ thoát nghèo hay khả năng duy trì mô hình sau 2–3 năm.
Định hướng mới: Sinh kế gắn thị trường, chuyển đổi số và cộng đồng
Giai đoạn 2026–2030 được xem là thời điểm tái cấu trúc mạnh mẽ hoạt động hỗ trợ sinh kế. Chương trình giảm nghèo sẽ đặt trọng tâm vào việc giúp hộ dân tiếp cận ít nhất một mô hình có đầu ra rõ ràng, phù hợp điều kiện địa phương và gắn với chuỗi giá trị. Thay vì hỗ trợ rời rạc, các mô hình cần được thiết kế đầy đủ từ tổ chức nhóm hộ, hỗ trợ kỹ thuật, chuẩn hóa chất lượng đến bao tiêu sản phẩm và quản lý rủi ro.
Một trong những thay đổi lớn dự kiến là đẩy mạnh mô hình “cộng đồng tự chủ sinh kế”. Tại đây, nhóm hộ nghèo cùng xây dựng kế hoạch sản xuất, cùng giám sát và cùng chia sẻ trách nhiệm. Cơ chế luân chuyển vốn, dùng chung thiết bị và hỗ trợ có đối ứng sẽ giúp nâng cao tính bền vững, hạn chế phụ thuộc.
Chuyển đổi số cũng trở thành yêu cầu bắt buộc. Việc đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử, gắn mã vùng trồng, tem truy xuất nguồn gốc sẽ giúp sản phẩm của hộ nghèo tiếp cận thị trường rộng hơn. Các nền tảng số cũng có thể theo dõi tiến độ từng mô hình, cập nhật tình trạng hộ hưởng lợi, bảo đảm minh bạch nguồn lực.
Để mô hình sinh kế nhân rộng và ổn định, vai trò doanh nghiệp càng trở nên quan trọng. Các chính sách ưu đãi từ thuế, logistics đến bảo lãnh rủi ro sẽ khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị với hộ nghèo.
Giám sát kết quả sẽ chuyển trọng tâm sang thu nhập, mức độ duy trì mô hình và khả năng thoát nghèo bền vững. Cách đánh giá này phản ánh đúng thực tế, tránh tình trạng mô hình tồn tại chỉ trên hồ sơ.
Với cách tiếp cận mới, sinh kế không còn là hỗ trợ đơn lẻ, mà trở thành hệ sinh thái toàn diện, nơi người dân được trao quyền, có tổ chức đồng hành và có thị trường mở lối. Đây cũng là yếu tố quyết định để giảm nghèo bền vững, giúp cộng đồng nông thôn vươn lên lâu dài.
Lê Minh
Nguồn Kiểm Toán : http://baokiemtoan.vn/da-dang-hoa-sinh-ke-dong-luc-moi-cho-giam-ngheo-ben-vung-giai-doan-2026-2030-44603.html