Đặc sắc trang phục của phụ nữ dân tộc Khơ Mú

Đặc sắc trang phục của phụ nữ dân tộc Khơ Mú
4 giờ trướcBài gốc
Bản làng vùng cao của đồng bào dân tộc Khơ Mú. Ảnh: Việt Bắc
Giao thoa và khác biệt
Người Khơ Mú là một trong những cư dân có mặt sớm nhất ở vùng núi biên giới Tây Bắc. Dấu chân họ in đậm trên những dãy núi của Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên... Trải qua bao thế hệ, dù từng có thời kỳ du canh, du cư, nhưng đời sống văn hóa tinh thần của người Khơ Mú vẫn phong phú, đậm đà bản sắc và trang phục phụ nữ chính là minh chứng sống động nhất cho điều đó.
Thoạt nhìn, trang phục của phụ nữ Khơ Mú có nét tương đồng với người Thái với cùng chiếc áo cóm đen, váy đen, khăn đội đầu dài. Nhưng khi quan sát kỹ, ta nhận ra sự khác biệt tinh tế trong từng chi tiết, phản chiếu tính cách giản dị mà sâu sắc của người Khơ Mú. Nếu áo cóm của phụ nữ Thái chú trọng đường nét mềm mại, rực rỡ, thì áo cóm Khơ Mú lại mang vẻ đẹp mộc mạc, kín đáo hơn, thể hiện sự dung dị, chân chất của người miền núi. Để trang phục của dân tộc mình đặc sắc hơn, nhiều phụ nữ đã cải tiến bằng cách sử dụng các loại vải màu như xanh, đỏ, vàng, tím đính kèm kim tuyến để làm áo cóm, nhưng vẫn giữ nguyên các họa tiết đặc trưng của dân tộc.
Nói về những khác biệt trong trang phục của phụ nữ Khơ Mú và phụ nữ Thái, bà Quàng Thị Kẹo, bản Nậm Pù, xã Huổi Một, tỉnh Sơn La cho biết, trang phục truyền thống của phụ nữ Khơ Mú có nhiều điểm tương đồng so với trang phục phụ nữ người Thái, song vẫn có nét riêng biệt. Áo của người Khơ Mú mặc thường ngày chủ yếu là áo ngắn màu chàm, xanh thẫm hoặc xanh lá mạ. Nẹp cổ liền với nẹp ngực nhưng chỉ dài ngang ngực. Phía dưới hai nẹp ngực nối thêm những băng vải nhỏ nhiều màu sặc sỡ. Áo thường có hai lớp vải, lớp trong thường là vải chéo xanh hoặc phin, lớp ngoài là vải dệt thô nhuộm chàm. Ðiểm nhận diện rõ nhất về trang phục của phụ nữ Khơ Mú là chiếc áo cóm. Nếu như phụ nữ Thái mặc áo nhiều màu sắc khác nhau, thì áo của phụ nữ Khơ Mú thường màu đen, dài đến eo. Nét độc đáo chính là cách trang trí những hàng tiền bạc và vỏ ốc ở phía thân áo cóm của phụ nữ. Ðây là điểm nhấn thu hút nhất của chiếc áo phụ nữ dân tộc Khơ Mú.
Đặc biệt, chiếc khăn đội đầu (tiếng Khơ Mú là “hưm pông”) là minh chứng cho sự giao thoa ấy. Khăn của người Khơ Mú trông gần giống chiếc khăn Piêu của người Thái, song lại giản lược hơn với những đường viền chỉ xanh, đỏ thanh thoát. Khăn được dệt bằng vải mộc nhuộm chàm, dài chừng 2m, rộng khoảng 40cm, một mặt thêu hoa văn tinh tế, hai đầu đính tua rua và vải hoa màu sặc sỡ. Vào lễ hội, phụ nữ Khơ Mú thường chọn loại khăn có hoa văn thêu nổi như lời gửi gắm sự tươi vui, hạnh phúc và niềm mong ước về cuộc sống đủ đầy. Trong từng nếp vải, từng cách phối màu, có thể thấy rõ tinh thần giao lưu văn hóa vùng miền, một sự tiếp biến nhẹ nhàng giữa các dân tộc anh em. Nhưng điều làm nên bản sắc riêng của trang phục Khơ Mú không nằm ở sự phô trương, mà ở chỗ họ chọn giữ lại tinh thần của mình, vừa kín đáo, bền bỉ, khiêm nhường mà vẫn nổi bật giữa đại ngàn.
Nét đẹp duyên dáng của trang phục Khơ Mú
Nếu ai đã từng một lần nhìn thấy người phụ nữ Khơ Mú trong bộ trang phục truyền thống chắc chắn sẽ không thể quên vẻ đẹp dung dị mà duyên dáng ấy. Áo cóm, váy đen, khăn đội đầu, dây thắt lưng “láp la”..., tất cả hòa quyện thành một tổng thể hài hòa, thể hiện sự khéo léo, tinh tế của người phụ nữ vùng cao.
Chiếc áo cóm đen, biểu tượng rõ nét nhất trong bộ trang phục là loại áo ngắn, dài đến eo, cổ áo cắt hình chữ V, nẹp viền thổ cẩm và đáp tấm vải hoa văn rực rỡ chạy dọc từ cổ áo xuống thân. Trên ngực áo, những hàng tiền bạc, vỏ ốc, hạt ngọc nhiều màu được đính tỉ mỉ, lấp lánh dưới nắng, thể hiện khát vọng về sự sung túc, phồn thịnh và cầu mong thần Mặt trời che chở, sưởi ấm. Ở hai bên nẹp ngực, phụ nữ Khơ Mú còn trang trí những hình mặt trời tròn và khuyết, biểu tượng của sự vận hành vĩnh cửu giữa con người và thiên nhiên.
Phụ nữ Khơ Mú thường diện trang phục truyền thống vào các dịp lễ hội, hay khi tham gia các sinh hoạt cộng đồng, các buổi biểu diễn văn nghệ của địa phương. Ảnh: Việt Bắc
Mỗi chiếc áo cóm là kết quả của hàng tháng trời lao động tỉ mỉ. Người phụ nữ phải biết dệt, biết nhuộm chàm, biết thêu và biết sắp đặt hoa văn sao cho hài hòa. Những gia đình khá giả thường có áo cóm được thêu cầu kỳ hơn, với gấu áo đính chỉ màu và tua dài rực rỡ, trong khi áo của người bình dân lại giản dị, chỉ điểm xuyết vài đường chỉ nhỏ trên nẹp ngực. Dẫu cầu kỳ hay đơn sơ, chiếc áo ấy vẫn toát lên niềm tự hào của người mặc, cũng chính là niềm tự hào về cội nguồn, về bàn tay lao động cần mẫn. Đi cùng áo cóm là chiếc váy đen dài ngang bắp chân. Khác với váy của người Thái hay người Lào, váy người Khơ Mú thường dệt từ vải thô, ít hoa văn, nhằm thuận tiện cho việc lao động nương rẫy. Nhưng chính sự giản dị ấy lại tạo nên nét duyên riêng, khi kết hợp cùng “láp la” (dây lưng) sặc sỡ quấn quanh eo, bộ trang phục trở nên cân đối, mềm mại và đầy nữ tính. Dây lưng không chỉ để giữ váy, mà còn tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, cho sự gắn bó giữa họ với gia đình, bản làng. Đặc biệt, trong đời sống hiện đại, phụ nữ Khơ Mú vẫn giữ thói quen tự dệt, tự thêu trang phục cho mình. Có người nói rằng, đó không chỉ là công việc, mà còn là một cách lưu giữ ký ức. Mỗi hoa văn, mỗi gam màu đều gợi nhớ về rừng núi, suối nguồn, về tiếng khung cửi lách cách vang lên trong gian nhà sàn, nơi những người mẹ, người chị kiên nhẫn gửi hồn mình vào từng sợi chỉ.
Bảo tồn và phát triển tinh hoa
Ngày nay, khi cuộc sống hiện đại len về từng bản làng, khi những bộ trang phục công nghiệp tiện lợi xuất hiện ngày càng nhiều, thì việc gìn giữ và phát huy giá trị của trang phục truyền thống Khơ Mú trở thành vấn đề được cộng đồng quan tâm. Không ít người trẻ đã dần xa rời váy áo thổ cẩm, thay bằng những bộ đồ may sẵn. Thế nhưng, ở nhiều nơi, đặc biệt là các bản vùng sâu của Điện Biên, Sơn La, những người phụ nữ Khơ Mú vẫn kiên trì giữ nghề dệt, coi đó là sợi dây kết nối giữa quá khứ và hiện tại.
Các già làng, nghệ nhân vẫn miệt mài dạy cho con cháu cách dệt vải, thêu hoa văn, làm áo cóm. Ở các dịp lễ hội, ngày hội văn hóa các dân tộc, hình ảnh phụ nữ Khơ Mú trong trang phục truyền thống lại rạng rỡ, tự tin khoe sắc giữa cờ hoa, âm nhạc. Nhiều địa phương đã đưa nghề dệt thổ cẩm và trang phục Khơ Mú vào chương trình bảo tồn văn hóa phi vật thể, đồng thời khuyến khích chị em phụ nữ sáng tạo, cải tiến để phù hợp hơn với đời sống hiện đại. Một số phụ nữ Khơ Mú trẻ đã mở các tổ hợp tác, nhóm dệt thủ công, sản xuất hàng lưu niệm từ họa tiết áo cóm, như túi xách, khăn quàng, vỏ gối, áo kiểu. Họ không chỉ gìn giữ tinh hoa của dân tộc mình, mà còn thổi vào đó hơi thở của thời đại, giúp trang phục truyền thống bước ra khỏi bản làng, đến gần hơn với du khách trong và ngoài nước.
Ở góc độ văn hóa, việc bảo tồn trang phục Khơ Mú không chỉ là giữ lại một loại hình nghệ thuật tạo hình, mà còn là gìn giữ một “mã di truyền văn hóa”, nơi lưu giữ dấu ấn của lối sống, tư duy thẩm mỹ, quan niệm nhân sinh. Mỗi họa tiết thêu, mỗi cách phối màu đều ẩn chứa câu chuyện về con người, thiên nhiên, về niềm tin vào sự sinh sôi, mùa màng, về hạnh phúc của gia đình. Tại nhiều bản vùng biên, cán bộ, chiến sĩ Biên phòng cũng đồng hành cùng người dân trong công tác bảo tồn văn hóa. Các chương trình “Ngày hội biên cương”, hay các hội thi “Phụ nữ Khơ Mú duyên dáng trong trang phục truyền thống” được tổ chức thường xuyên, góp phần khơi dậy niềm tự hào dân tộc, tạo động lực để thế hệ trẻ yêu và gìn giữ nét đẹp của quê hương.
Có thể nói, mỗi bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Khơ Mú là kết tinh của bàn tay, khối óc, là tình yêu với bản làng và cội nguồn. Dù thời gian có đổi thay, những nếp váy, đường thêu, chiếc áo cóm vẫn mãi là biểu tượng của vẻ đẹp thuần khiết, của sức sống bền bỉ giữa đại ngàn Tây Bắc.
Việt Bắc
Nguồn Biên Phòng : https://bienphong.com.vn/dac-sac-trang-phuc-cua-phu-nu-dan-toc-kho-mu-post497319.html