Chiều 3/12, Quốc hội thảo luận tại tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035; Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 98 đề xuất thêm nhiều cơ chế đặc thù về đất đai cho TP HCM…
ĐỀ XUẤT ĐA DẠNG HÓA NGUỒN VỐN
Tham gia góp ý, ĐBQH Mai Văn Hải, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa thống nhất với sự cần thiết ban hành chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Bên cạnh đó, đại biểu bày tỏ băn khoăn với mục tiêu cụ thể về giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều, về xây dựng nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới hiện đại. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét cụ thể việc xây dựng các chỉ tiêu. Đồng thời, cần làm rõ nguồn vốn dự kiến trong giai đoạn 2026-2035 đối với tỷ lệ vốn ngân sách Trung ương và vốn ngân sách địa phương. Theo đại biểu, nên nghiên cứu cân đối để huy động tổng thể các nguồn vốn trong Nhân dân, nguồn vốn trong các thành phần kinh tế của các doanh nghiệp, ngân hàng...
Đại biểu Mai Văn Hải đề xuất giao cho Chính phủ quy định về cơ chế ban hành của Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Tham gia góp ý, ĐBQH Cao Thị Xuân, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho biết, Hội đồng Dân tộc thống nhất với sự cần thiết hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để xây dựng thành một Chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư trong giai đoạn 2026-2035.
Đại biểu cho rằng, việc hợp nhất này sẽ góp phần giảm chồng chéo về chính sách, đối tượng, địa bàn; khắc phục những tồn tại, hạn chế thực hiện 3 Chương trình trong giai đoạn 2021-2025; nâng cao hiệu quả đầu tư, tập trung, ưu tiên nguồn lực cho vùng khó khăn nhất, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Về hợp phần và các chính sách, Hội đồng Dân tộc cơ bản thống nhất với cấu trúc chương trình gồm 2 hợp phần, đề nghị Chính phủ chỉ đạo, tiếp thu đầy đủ ý kiến của các cơ quan hữu quan, rà soát phê duyệt chương trình bảo đảm không trùng lặp về nội dung giữa các hợp phần và với các chương trình, dự án đã có quyết định hoặc đang trình quyết định chủ trương đầu tư; về nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan.
Theo đại biểu, Trung ương chỉ nên quy định khung, giao chỉ tiêu, còn các hoạt động cụ thể, chi tiết nên giao cho địa phương lựa chọn, quyết định đầu tư để phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
GỠ VƯỚNG TÍNH GIÁ ĐẤT CHO DỰ ÁN BT
Góp ý gỡ vướng cho nhiều dự án BT tại TP HCM, đại biểu Trần Hữu Hậu (đoàn Tây Ninh) cho biết, theo luật Đất đai thì thời điểm xác định giá đất đối với diện tích đất thanh toán cho hợp đồng BT là thời điểm Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất.
"Quy định này theo lẽ thường là rõ ràng, công bằng và sòng phẳng, bởi lẽ nhà đầu tư được giao đất khi nào thì Nhà nước tính tiền sử dụng đất thời điểm ấy. Nhưng thực tế không đơn giản như thế", ông Hậu nói.
Đại biểu đoàn Tây Ninh dẫn chứng, rất nhiều dự án nhà đầu tư đã hoàn thành, đã định giá và bàn giao, nhưng nhiều năm sau, cơ quan chức năng mới ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất và bàn giao quỹ đất thanh toán cho nhà đầu tư để thực hiện dự án đối ứng.
Điều này khiến nhà đầu tư thiệt hại chồng thiệt hại, bởi thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất và bàn giao quỹ đất thanh toán cách thời điểm ký hợp đồng và cả thời điểm bàn giao công trình quá xa, chênh lệch giá đất giữa 2 thời điểm rất lớn.
Trong khi đó, theo đại biểu Hậu, luật PPP quy định "giá đất dự kiến của quỹ đất thanh toán cho dự án BT được tính căn cứ bảng giá đất tại thời điểm lập dự án, lập hồ sơ mời thầu". Điều này "có vẻ có lợi hơn cho nhà đầu tư", nhưng theo ông Hậu vẫn nảy sinh vấn đề.
Cụ thể, thời điểm "lập dự án, lập hồ sơ mời thầu" có khi rất xa thời điểm nhà đầu tư hoàn thành, bàn giao công trình, xác định giá trị thanh toán; như vậy, bất lợi cho Nhà nước.
Trong thực tế, hầu như khó xác định và thống nhất giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư về "thời điểm lập dự án, lập hồ sơ mời thầu" mà 2 bên có thể xác định ngay, rõ ràng, có đầy đủ căn cứ pháp lý là thời điểm ký kết hợp đồng.
"Để bảo đảm công bằng, sòng phẳng và giảm bớt thiệt hại cho nhà đầu tư cần quy định "xác định giá đất đối với diện tích đất thanh toán cho hợp đồng BT" phải cùng thời điểm ký kết hợp đồng BT, hoặc chí ít cũng là thời điểm nhà đầu tư hoàn thành bàn giao công trình thuộc dự án", đại biểu Trần Hữu Hậu nhìn nhận.
Do đó, ông đề xuất bổ sung trường hợp chưa giao đất, chưa cho thuê đất đối với hợp đồng BT, trên cơ sở giá trị khối lượng nghiệm thu công trình, UBND TP HCM thực hiện việc giao đất, cho thuê đất để thanh toán hợp đồng BT. Giá tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với quỹ đất thanh toán theo hợp đồng BT được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng BT.
"Quy định như vậy, chẳng những thể hiện tinh thần kiến tạo, công bằng, sòng phẳng của Nhà nước với doanh nghiệp, nhà đầu tư mà còn là cơ chế thúc đẩy các cơ quan, các công chức liên quan thực hiện tốt hơn chức trách, nhiệm vụ của mình; tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước", ông Hậu phân tích.
Thiên Tuấn