Đại tá, Nhà báo Tùng Lâm: Sứ mệnh và trái tim người Lính

Đại tá, Nhà báo Tùng Lâm: Sứ mệnh và trái tim người Lính
8 giờ trướcBài gốc
Trước khi khoác lên vai quân phục màu xanh ấy, nhà báo Tùng Lâm từng là một cô giáo dạy nhạc, mang trong mình tâm hồn lãng mạn của thi ca, nhạc họa. Lớn lên trong một gia đình cả bố và mẹ đều là nhà giáo, như chị kể là sách ở nhà chị được "xếp từ chân tường lên tận nóc nhà". Được gia đình dạy cho tình yêu văn chương, nghệ thuật từ bé, chị đã mang trong mình một sự đa cảm và một chiều sâu đặc biệt. Và không ai nghĩ rằng, cô giáo dạy nhạc với tâm hồn lãng mạn, chuyên văn từ nhỏ ấy, lại có ngày trở thành một người lính, một nhà báo mà tên tuổi gắn liền với những hành trình nơi chiến trường xưa khốc liệt.
Năm 1991, sau một năm rưỡi làm giáo viên dạy nhạc ở tỉnh Tuyên Quang, một quảng cáo tuyển phát thanh viên cho chương trình Truyền hình Quân đội Nhân dân đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời chị. Giữa 300 ứng viên tham gia thi tuyển, trong đó có cả những hoa hậu, á hậu, chị đã trúng tuyển. Ngày 19 tháng 5 năm 1992, đúng ngày sinh của Bác, chị có buổi lên hình đầu tiên. Sự tình cờ này, khi nhìn lại, dường như lại là một sự sắp đặt hoàn hảo đối với chị. Ngay từ những ngày đầu, khi Truyền hình Quân đội chỉ có một chương trình duy nhất trên VTV1, chương trình Nhắn tìm đồng đội đã được ra đời. Và chị, cô phát thanh viên trẻ tuổi mới 22, 23 đã trở thành gương mặt, giọng đọc đầu tiên của chương trình. Chị tin rằng, chính các liệt sĩ đã chọn chị từ lúc ấy, khi chị còn rất trẻ, để bắt đầu một sứ mệnh mà sau này đã trở thành lẽ sống của chị.
Sứ mệnh lớn nhất, định hình nên tên tuổi, thương hiệu và cả con người Đại tá, nhà báo Tùng Lâm, chính là hành trình đi tìm hài cốt liệt sĩ và khắc phục hậu quả chiến tranh ở Việt Nam. Chị đã đi theo con đường ấy bằng tất cả tình cảm, trí tuệ, tâm huyết và niềm tin của mình.
Năm 1992, Tùng Lâm trở thành gương mặt đầu đầu tiên xuất hiện trên chương trình Nhắn tìm đồng đội. Chị nhớ lại: "Mỗi một lần làm chương trình, tôi đã đọc nhắn tìm hàng trăm liệt sĩ, tôi đã thuộc từng tên làng, tên núi, tên sông, địa danh từng trận đánh… Có những buổi ghi hình, phía sau ống kính, tôi đã ngồi khóc lặng một mình giữa trường quay. Tôi nhắm mắt lại và bồi hồi, hình dung rằng 100 cái tên ấy chính là các anh, 100 con người bằng xương bằng thịt, trẻ trung, đẹp đẽ và đầy yêu thương như thế nào.”
Và 20 năm miệt mài nhắn tìm là hai mươi năm chị "đắm mình" trong nỗi đau của cả dân tộc. Hàng ngàn, hàng vạn lá thư từ khắp mọi miền gửi về. Có những lời động viên, yêu thương, nhưng cũng có cả những lời trách móc, hờn giận.
Có những gia đình liệt sĩ gửi thư, gửi quà tặng tôi, thậm chí có những nghệ nhân ở làng thêu Thường Tín, thêu tặng tôi những bức tranh với khung hình tôi đang phát thanh trên truyền hình. Tôi biết, không phải họ yêu quý riêng cá nhân tôi mà nhân dân cả nước yêu quý Quân đội Nhân dân Việt Nam, yêu quý những người đang được Quân đội giao cho sứ mệnh đặc biệt này. Và trong hành trình đó, tôi nhớ cả những lời trách móc: "Em đừng như con cuốc kêu mùa hè ra rả như thế, có bao nhiêu liệt sĩ đang nằm lại chiến trường em có biết không?".
Lời trách móc ấy không phải là một sự chỉ trích, với tôi, nó như mà là một lời hiệu triệu dành cho tất cả những người đang sống. Nó trở thành một nỗi niềm “đau đáu”, một sự thôi thúc khôn nguôi với tôi và mọi người.
Chị nhận ra rằng, chỉ "nhắn tin" thôi là không đủ mà phải hành động, phải "Đi tìm".
Và cơ hội đến vào năm 2013, khi Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 (Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ) ra đời, chị đã một mình xây dựng đề án, trình lên Ban Chỉ đạo quốc gia, trình lên Tổng cục Chính trị và Bộ Quốc phòng. Đề án đó là phải làm cho được chương trình truyền hình Đi tìm đồng đội và hai chương trình đặc biệt cấp quốc gia Tổ quốc ghi công và hòa nhạc Bài ca không quên để dành tặng người hy sinh. Và sau 20 năm từ người đưa tin, chị đã trở thành người khởi xướng, người đạo diễn dấn thân vào một hành trình tìm kiếm liệt sĩ cùng với đội quy tập.
Vị Xuyên, Hà Giang là một trong những địa danh hằn sâu trong tâm trí của chị. Có năm, chị lên Hà Giang tới 7 lần, lặn lội trên đỉnh 1509, cao điểm 468. Giữa những chiến hào ác liệt, nơi hàng nghìn liệt sĩ vẫn đang nằm lại. Chị đã không thể quên khi thấy những di vật của các anh để lại trên những hầm hào trên đỉnh núi : chiếc quần còn hằn hàng trăm vết đạn, mảnh áo, đôi giày vỡ vụn… Được ngủ lại trên mảnh đất ấy, đối mặt với biết bao hiểm nguy từ mìn và vật liệu nổ còn cài lại, chị trộm nghĩ: "Nếu có điều gì xảy ra, mình sẽ sẵn sàng…”.
Tiếng nói của chị và các đồng nghiệp của Truyền hình Quân Đội, thông qua các tác phẩm truyền hình, đã vang đến những lãnh đạo cấp cao nhất. Quốc hội đã quyết định dành ngân sách hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho Hà Giang để rà phá mìn, vật liệu nổ, làm sạch những đỉnh núi, để các đội quy tập đưa các anh trở về.
“Trên những nẻo đường tìm kiếm hài cốt ở Lào hay Campuchia, thường là những đêm không ngủ. Khi nằm cạnh di cốt của các anh, những người lính vừa được các đội quy tập tìm thấy. Trong bóng đêm, tôi thường thầm thì, tâm sự cùng các anh, tôi vẫn luôn tin rằng, chính các anh đã lựa chọn tôi cho sứ mệnh đặc biệt này.” - Chị chia sẻ.
Năm 2021, giữa tâm dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh, hàng ngàn cán bộ chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã lên đường vào nam “chống giặc”. Hòa cùng đoàn quân ấy, Đại tá, nhà báo Tùng Lâm đã dẫn đầu một đoàn 11 phóng viên của Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội, tác nghiệp tại "mặt trận không tiếng súng" mang tên COVID-19. “hàng ngàn,hàng vạn cán bộ chiến sĩ hành quân ra ra chiến trận, mình phải đi chứ. Mình là Đại tá mà, ở nhà lúc đó là mình rất hèn," chị quả quyết.
Suốt 60 ngày đêm đối diện với kẻ thù không rõ gương mặt, Đại tá, nhà báo Tùng Lâm và các đồng đội đã sống giữa những đau thương, mất mát đến tận cùng. Chị và các phóng viên đã ở tại bệnh viện 175, tòa nhà ngay nhà tang lễ với những container lạnh chất đầy thi thể, chứng kiến những cảnh tang thương không thể nào quên. Họ đi vào từng bệnh viện dã chiến, lặn lội vào từng con hẻm để trao cho người dân gói quà, củ khoai. Chị và đồng đội đi theo từng bước chân của các lực lượng tuyến đầu để hoàn thành 10 tập phim tài liệu vô cùng giá trị làm tham chiếu khi đất nước có tình huống tương tự xảy ra. Họ ghi lại không chỉ sự tàn khốc của dịch bệnh, mà còn cả tình người, sự hy sinh và bản lĩnh kiên cường của cả dân tộc Việt Nam trong đại dịch.
“Tinh thần ấy đã trở thành lẽ sống, là kim chỉ nam của cả cơ quan chúng tôi, Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội, nơi có đến hơn 50% là phóng viên nữ.”
Ở chị, người lính và người nghệ sĩ không đối lập, mà bổ sung cho nhau, hòa quyện vào nhau. Tâm hồn nghệ sĩ cho chị sự thấu cảm để hiểu được tận cùng của nỗi đau. Và tinh thần người lính cho chị kỷ luật và lòng dũng cảm để thực thi sứ mệnh đó. Quân đội trao đã cho chị một sứ mệnh tuyệt đẹp để chị được sống với chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn của mình.
Khi được hỏi về con người mình, chị hóm hỉnh ví von mình như một "tắc kè hoa", một hình ảnh dung dị mà lột tả sâu sắc một cá tính phức hợp, đa sắc màu, nơi những thái cực tưởng chừng đối lập lại hòa quyện vào nhau một cách dịu dàng đến thế.
Màu sắc đầu tiên, và cũng là gam màu chủ đạo, là màu xanh áo lính của bộ đội cụ Hồ. Chị - một vị chỉ huy rắn rỏi, kiên cường, bất khuất, quyết đoán và chấp nhận hy sinh. Khí phách đanh thép ấy đã được tôi luyện qua bao chuyến đi, bằng các tác phẩm truyền hình, đặc biệt là nơi chiến trường xưa và được thử lửa giữa tâm dịch COVID-19 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhưng ẩn sau lớp áo lính rắn rỏi ấy, là một màu sắc hoàn toàn tương phản: màu của thơ ca, nhạc họa, của một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm và lãng mạn đến tận cùng. Ít ai biết, vị nữ Đại tá ấy từng là cô giáo dạy nhạc, là dân chuyên văn từ nhỏ, lớn lên trong một ngôi nhà "thư viện" và được cha mẹ nuôi dưỡng với đủ đầy tình yêu thương. Chị chơi guitar, chị hát, chị mang sự tinh tế và sâu lắng của người nghệ sĩ vào trong từng tác phẩm, từng chương trình của mình.
Chị Tùng Lâm thời trẻ.
Còn một gam màu đời thường, ấm áp khác. Đó là một người phụ nữ yêu Hà Nội đến tha thiết, yêu cái đẹp đến tận cùng và là một người phụ nữ của nội trợ đầy cảm xúc. Một người “Giữa chiến trường nhưng vẫn có thể làm anh nuôi", mang hơi ấm của hậu phương đến những nơi gian khó nhất.
Tất cả những gam màu ấy đã quyện hòa vào và tạo nên một dấu ấn, một biểu tượng của riêng chị: Bông hồng thép.
Đó chính là chân dung “Bông hồng thép” - "Tắc kè hoa" Đại tá, nhà báo Tùng Lâm. Một người chỉ huy, một nghệ sĩ, một người phụ nữ đảm của gia đình. Chính sự đa diện đó đã cho chị một sức mạnh phi thường: vừa đủ cứng rắn để đối mặt với hiểm nguy, vừa đủ mềm mại để cảm nhận những nỗi đau sâu kín nhất, và vừa đủ lãng mạn để biến công việc báo chí khô khan thành một sứ mệnh đầy chất thơ và lòng trắc ẩn.
Hai trong số những chương trình quan trọng nhất mà nhà báo Tùng Lâm là tác giả và đạo diễn chính là chương trình Tổ quốc ghi công vào ngày 27/7 và đặc biệt là Bài ca không quên vào ngày 22/12 hàng năm.
Chị chia sẻ, chương trình truyền hình Tổ quốc ghi công như một bản báo cáo đầy trách nhiệm và minh bạch trước nhân dân cả nước. Chương trình phản ánh hoạt động thường niên của Ban Chỉ đạo quốc gia 515, trả lời cho những câu hỏi đau đáu của hàng triệu thân nhân liệt sĩ: Chúng ta đã làm được gì? Đã tìm được bao nhiêu hài cốt liệt sĩ? Còn bao nhiêu công việc đang chờ đợi? Ai còn? Ai mất? Ai hạnh phúc, ai khổ đau?… Đó không chỉ là một chương trình truyền hình, nó là nơi để tất cả chúng ta, nhân dân cả nước thực hiện lời hứa của mình với quá khứ, với lịch sử của dân tộc, là nơi nỗi đau riêng của mỗi gia đình liệt sĩ được sẻ chia và được thấu hiểu.
Nhưng chính chương trình hòa nhạc đặc biệt Bài ca không quên (phát sóng dịp 22/12 hằng năm) mới thực sự lột tả triết lý độc đáo của Đại tá, nhà báo Tùng Lâm. Chị chia về ý tưởng vô cùng sâu sắc của chương trình: đó là một chương trình hòa nhạc để "dành tặng những người đã mất".
Trong không gian nghệ thuật đỉnh cao của hòa nhạc trực tiếp ấy, âm dương như không hề có sự cách biệt, các anh như ở đó, đẹp đẽ, hào hoa, đầy khí phách và các nghệ sĩ đã cống hiến hết mình bằng tất cả lòng biết ơn và sự kính trọng.
Nhìn về tương lai không xa, hoài bão của Đại tá nhà báo Trịnh Tùng Lâm không hề nhỏ lại, mà chị còn muốn vươn tới những vì sao,vươn tới vũ trụ, như một ẩn dụ đẹp đẽ cho toàn bộ sứ mệnh của cuộc đời chị.
Chị có một khát khao cháy bỏng: được bay vào vũ trụ. Mục đích là để gửi đi một "thông điệp của hòa bình, thông điệp của hàn gắn" từ vũ trụ. Đó sẽ là một "thông điệp quốc gia, thông điệp toàn cầu", được cất lên bởi một người cả đời làm nhiệm vụ đặc biệt: hàn gắn vết thương chiến tranh. Khát vọng bay vào vũ trụ chính là sự thăng hoa ở mức độ cao nhất cho sứ mệnh hòa giải của chị. Chị đã trình bày ý tưởng ấy với ngài Marc Knapper (Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Việt Nam), ngài đã vui vẻ nhận lời và hứa sẽ chuyển mong ước của chị tới các cơ quan chức năng của Hoa Kỳ.
Chị ý thức sâu sắc, đầy trách nhiệm về công việc mà chị đang làm. "Chúng ta còn gần 200.000 liệt sĩ chưa tìm thấy hài cốt, còn gần 300.000 liệt sĩ đã tìm thấy hài cốt... nhưng chưa xác định được danh tính". Vì vậy, chị ý thức rằng công việc này sẽ không kết thúc khi chị nghỉ hưu. "Tôi sẽ làm việc này cho đến khi không thể làm được nữa. Tôi vẫn đang còn quá nhiều việc với các anh vẫn chưa xong". Đó là một lời hứa của chị với lịch sử.
Nếu có kiếp sau, chị vẫn muốn được làm Bộ đội Cụ Hồ, vẫn muốn được làm nhà báo của Quân đội nhân dân Việt Nam, và vẫn muốn được tiếp tục sứ mệnh thiêng liêng này. Một sứ mệnh đặc biệt với trái tim người lính.
Nội dung: Quỳnh Hoa - Lê Vượng - Ngọc Thanh
Thiết kế: Thu Trang
Quỳnh Hoa - Lê Vượng
Nguồn SVVN : https://svvn.tienphong.vn/dai-ta-nha-bao-tung-lam-su-menh-va-trai-tim-nguoi-linh-post1753107.tpo