Tả quân Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 tại làng Hòa Khánh (nay là Cái Bè, tỉnh Tiền Giang cũ) trong một gia đình nông dân. Ảnh: T.L.
Cầu Thị Nghè, Vườn Ông Thượng, Lăng Ông, những địa danh quen thuộc ở TP.HCM hiện nay, từng là nơi in dấu vai trò chính trị và đời sống của Tả quân Lê Văn Duyệt. Ông là một trong ba đại thần được vua Gia Long tham khảo ý kiến về người kế vị và cũng là người có mặt ở Gia Định khi vùng đất này thành hình bộ máy cai trị ổn định dưới triều Nguyễn.
Tác động của ông không chỉ nằm trong chính sự. Người dân Nam bộ còn truyền nhau nhiều câu chuyện về ông như một nhân vật văn hóa. Trong sách Sài Gòn Tạp Pín Lù, học giả Vương Hồng Sển kể lại việc người dân ở khu Sầm Giang (Tiền Giang cũ) kiêng chữ “dám” vì cho rằng phạm húy đến một đặc điểm cơ thể của Tả quân.
Tả quân Lê Văn Duyệt được dân Nam kính trọng gọi là “Ông Lớn Thượng”. Khi giữ chức Tổng trấn Gia Định, ông để lại ảnh hưởng sâu rộng từ việc xây dựng thành trì, tổ chức lễ nghi triều đình đến hình thành các tập tục gắn với đời sống cộng đồng.
Sách Sài Gòn năm xưa và Sài Gòn Tạp Pín Lù của Vương Hồng Sển là nguồn tư liệu quan trọng giúp lý giải hình ảnh Tả quân vừa hiện diện trong chính sử vừa ăn sâu vào ký ức tập thể. Nhà nghiên cứu Sơn Nam gọi Lăng Ông là “tiềm thức của Gia Định xưa”, nơi người dân đến hái lộc, tưởng niệm và xem như không gian thiêng liêng giữa lòng đô thị.
Giai thoại về Tả quân Lê Văn Duyệt
Trong hai nhiệm kỳ giữ chức Tổng trấn Gia Định, Tả quân Lê Văn Duyệt để lại nhiều dấu ấn ở vùng đất Sài Gòn xưa. Dưới thời ông, thành được đắp thêm một thước năm tấc đá ong để gia cố. Dinh của ông nằm sau Vọng Cung, gần khu vực Bộ Ngoại giao và Dinh Độc Lập hiện nay. Khu vực này xưa được gọi là Vườn Ông Thượng, một danh xưng tôn kính dành cho Tả quân, theo Sài Gòn năm xưa.
Một số công trình dân sinh cũng gắn với sinh hoạt của gia đình, thuộc hạ ông. Học giả Vương Hồng Sển ghi chép về Cầu Thị Nghè được xây dựng bằng tiền riêng của con gái ông Vân Trường Hầu. Người này bỏ tiền làm cầu để chồng mình, một ông Nghè làm lại mục trong dinh Tả quân, không phải lội đò vất vả.
Cây thốt nốt xuất hiện quanh khuôn viên Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt cũng có giai thoại riêng. Theo sách Sài Gòn tạp pín lù, loài cây này gợi nhắc đến mối quan hệ giữa Tả quân và đất Miên. Đây là loại cây thân to hơn cây dừa, lá khác đôi chút và cây mọc rất cao, rất khỏe nhưng chỉ hợp với đất Cao Miên. Do đó, việc những cây thốt nốt sum suê ở Lăng Ông vừa là biểu tượng lịch sử vừa có tính thần thoại.
Lăng Tả quân nơi người dân từng đến hái lộc đêm giao thừa, tổ chức lễ giỗ hay tưởng niệm ông vào các dịp đặc biệt trong năm. Ảnh: Quỳnh Danh.
Cũng trong sách này, học giả Vương Hồng Sển kể người dân ở khu vực Sầm Giang - Rạch Ông Hổ (thuộc tỉnh Tiền Giang cũ) từng kiêng không nói chữ “dám” (chỉ nói "diếm"), bởi sợ đụng chạm đến “cái tiêu tật hay ấn tật” của Tả quân. Theo đó, ông là người "á nam á nữ" bẩm sinh nên từng giữ chức thái giám trong cung dưới thời vua Gia Long.
Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt được gọi dân dã là Lăng Ông Bà Chiểu, gắn với địa danh Bà Chiểu gần đó. Nhà nghiên cứu Sơn Nam cho rằng Lăng Ông là một phần ký ức tập thể của người Sài Gòn. “Lăng Ông đã là tiềm thức của Gia Định xưa. Nó hiển hiện như sông Sài Gòn như đường phố với bóng cây mát rượi hoặc đầy bụi bặm”.
Không chỉ là di tích, đây còn là không gian linh thiêng, nơi người dân từng đến hái lộc đêm giao thừa, tổ chức lễ giỗ hay tưởng niệm Tả quân vào các dịp đặc biệt trong năm.
Bị kết tội sau khi qua đời
Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời vào năm 1832, dưới thời vua Minh Mạng. Sau đó không lâu, bộ máy tổng trấn Nam Kỳ bị giải thể, Gia Định được chia thành sáu tỉnh, đặt dưới sự điều hành của các quan do triều đình bổ nhiệm. Việc chuyển giao quyền lực diễn ra trong bối cảnh nhiều biến động.
Vào tháng 5/1833, một cuộc nổi dậy nổ ra tại thành Gia Định. Lê Văn Khôi, con nuôi của Tả quân, lúc đó đang bị giam, xin ra khỏi ngục để cúng giỗ cha và tổ chức phá ngục, cùng đồng đội chiếm giữ thành. Cuộc nổi dậy này kéo dài gần ba năm, từ 1833 đến 1835.
Theo ghi chép của Vương Hồng Sển và một số tài liệu như Đại Nam chính biên liệt truyện, cuộc nổi dậy của Khôi có sự tham gia của nhiều người từng làm việc dưới quyền Tả quân, cùng các đội lính hồi lương. Một số ghi chép cho rằng nguyên nhân ban đầu là bất đồng với chính quyền mới của Bố chánh Bạch Xuân Nguyên và cách triều đình xử lý di sản của Tả quân.
Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt rộng hơn 18.500 m2 trên một gò đất cao, được bao bọc bởi 4 con đường Lê Văn Duyệt, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Ảnh: Quỳnh Danh.
Lê Văn Khôi sau đó tự xưng là Đại nguyên soái, thiết lập hệ thống chỉ huy mới và cử người đi chiêu mộ ở các tỉnh Nam Kỳ. Trong một thời gian, lực lượng này kiểm soát thành Gia Định và gây ảnh hưởng đến một số vùng lân cận.
Năm 1835, cuộc nổi loạn bị đàn áp. Sau khi lấy lại thành, triều đình cho san bằng lăng mộ của Tả quân và xích bằng xiềng sắt. Bản tấu của Nội các được vua Minh Mạng phê duyệt (lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I) viết: "Lê Văn Duyệt vốn là đại thần thống lĩnh việc quân. Ở ngôi cao mà ngầm nuôi lòng gây họa. Đến nỗi tạo thành vụ án lớn. Tội của y không chỉ là mầm mống mà thôi. Việc này đáng phải xét xử".
Đến thời vua Tự Đức, lăng mộ mới được cho phép xây dựng lại trên nền cũ. Một bản tấu được dâng lên vua vào năm 1868 ghi: "Đình thần làm tập trình về công tội, xin khôi phục phẩm hàm cho các viên đã quá cố, Lê Văn Duyệt nên khôi phục chức cũ. Chúng thần nghĩ rằng các viên công thần đó có công lao, từ khi đắc tội đến nay đã qua nhiều năm, xin đội chỉ làm phiếu".
Từ khi được khôi phục danh dự, hình ảnh Tả quân Lê Văn Duyệt dần trở lại trong đời sống tinh thần người dân Nam Bộ. Đến nay, lăng mộ của ông tại Bà Chiểu vẫn là điểm tưởng niệm quan trọng, gắn liền với ký ức và niềm tin của nhiều thế hệ.
Đức An