Ngày 15.10.2025, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã ban hành Thông báo số 07-TB/CQTTBCĐ về kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng ban chỉ đạo, tại Hội nghị sơ kết tình hình triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW trong quý III/2025.
Một nội dung được phần nhiệm vụ trong Nghị quyết 57 nhấn mạnh là yêu cầu ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược, đồng thời thành lập Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược, trong đó ưu tiên các lĩnh vực robot và tự động hóa.
Các trường đại học khẩn trương đào tạo nhân lực tự động hóa
Hiện nay, Việt Nam có gần 60 cơ sở giáo dục đại học đào tạo chuyên ngành hoặc các chuyên ngành liên quan đến kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, bao gồm cả khối kỹ thuật, công nghệ, sư phạm kỹ thuật và công nghiệp. Trong đó, có một số trường đại học (ĐH) truyền thống hàng đầu như: Bách khoa Hà Nội, Bách khoa TP.HCM, Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, Công nghiệp Hà Nội, ĐH Bách khoa - ĐH Đà Nẵng, ĐH Điện lực được xem là trụ cột trong mạng lưới đào tạo kỹ sư tự động hóa của cả nước.
Một thiết bị robot được lập trình để xử lý trên dây chuyền - Ảnh: Bùi Tú
Tại ĐH Bách khoa Hà Nội, ngành Kỹ thuật điều khiển và Tự động hóa thuộc Viện Điện đã hình thành từ những năm 1960, với hàng nghìn kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ tốt nghiệp đang giữ các vị trí chủ chốt trong các tập đoàn công nghiệp, năng lượng, viễn thông, công nghệ cao. Mỗi năm, HUST tuyển hàng trăm sinh viên cho ngành này, với tỷ lệ việc làm sau tốt nghiệp đạt rất cao, phần lớn làm tại các doanh nghiệp FDI như ABB, Siemens, Samsung, hoặc viện nghiên cứu và startup trong lĩnh vực robot - IoT.
Tại TP.HCM, ĐH Bách khoa và Sư phạm Kỹ thuật là hai trung tâm đào tạo mạnh về ứng dụng tự động hóa công nghiệp. Mỗi năm, hai trường này cung cấp lượng lớn kỹ sư tự động hóa cho khu vực phía nam - nơi tập trung các khu công nghiệp lớn như Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. HCMUTE còn tiên phong mở ngành Robot và Trí tuệ nhân tạo, kết hợp đào tạo song song kỹ năng lập trình - điều khiển - cơ điện tử, nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà máy thông minh và dây chuyền sản xuất tự động.
Tại miền Trung, ĐH Bách khoa Đà Nẵng đào tạo hơn 300 kỹ sư tự động hóa mỗi năm, với thế mạnh về hợp tác quốc tế cùng các trường Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhiều sinh viên DUT được tiếp cận sớm với công nghệ PLC, SCADA, robot công nghiệp và hệ thống điều khiển thông minh.
Bên trong phòng thí nghiệm tự động hóa của trường Đại học Bách khoa TP.HCM - Ảnh: Bùi Tú
Cùng với đó, các trường như ĐH Công nghiệp Hà Nội, ĐH Điện lực, ĐH Giao thông Vận tải, ĐH Công nghiệp TP.HCM và ĐH Cần Thơ cũng mở rộng quy mô đào tạo tự động hóa, đặc biệt chú trọng hướng ứng dụng trong sản xuất công nghiệp, năng lượng tái tạo, nông nghiệp thông minh và giao thông hiện đại.
Thuận lợi trong đào tạo nhân lực chất lượng cao ngành tự động hóa
Trước hết, tự động hóa đang là một trong những lĩnh vực được Nhà nước ưu tiên hàng đầu. Việc Nghị quyết 57-NQ/TW xác định rõ robot và tự động hóa là ngành công nghiệp chiến lược tạo nên “hành lang chính sách” thuận lợi cho các trường đại học đầu tư chiều sâu về chương trình đào tạo, phòng thí nghiệm, cũng như hợp tác quốc tế.
Bên cạnh đó, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đang mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất mới của khu vực. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử, cơ khí, ô tô, logistics, dệt may, năng lượng… đều đang tăng nhu cầu kỹ sư tự động hóa, từ thiết kế hệ thống điều khiển, giám sát vận hành, đến triển khai giải pháp AI - IoT. Điều này giúp sinh viên ngành tự động hóa có thị trường lao động rộng mở, đồng thời giúp các trường liên kết mạnh mẽ hơn với doanh nghiệp trong đào tạo thực hành.
Sự hợp tác với các đối tác nước ngoài là cần thiết - Ảnh: Bùi Tú
Nhiều trường đã chủ động đổi mới chương trình theo hướng liên ngành, tích hợp giữa điện - điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí chính xác và trí tuệ nhân tạo. Một số trường như HCMUTE, HaUI, và HUST đã triển khai mô hình đào tạo kép - sinh viên học lý thuyết kết hợp 6 - 12 tháng thực tập tại doanh nghiệp, giúp họ tiếp cận sớm với công nghệ và môi trường sản xuất hiện đại.
Ngoài ra, sự phát triển của chuyển đổi số trong giáo dục đại học cũng là một thuận lợi quan trọng. Nhiều trường đã đưa vào giảng dạy các nền tảng mô phỏng, điều khiển ảo, hệ thống thực hành tự động từ xa, sử dụng công nghệ số để rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và sản xuất thực tế.
Những khó khăn và thách thức cần vượt qua
Tuy vậy, đào tạo nhân lực tự động hóa tại Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức. Trước hết, sự chênh lệch về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên giữa các trường vẫn lớn. Những trường đầu ngành có thể đầu tư phòng thí nghiệm hiện đại, song nhiều trường địa phương vẫn thiếu trang thiết bị, phải dựa vào mô phỏng hoặc thiết bị cũ, khiến việc thực hành chưa sát với công nghệ sản xuất hiện đại.
Ngoài ra, chênh lệch về chuẩn kỹ năng giữa sinh viên Việt Nam và quốc tế vẫn là vấn đề đáng lưu ý. Trong khi doanh nghiệp FDI đòi hỏi khả năng lập trình PLC, thiết kế hệ thống, sử dụng phần mềm chuyên dụng (EPLAN, Matlab, RobotStudio…), thì chương trình đào tạo ở một số trường còn nặng lý thuyết, thiếu cập nhật chuẩn kỹ năng toàn cầu.
Các phòng thí nghiệm cần đầu tư nhiều để theo kịp trào lưu thế giới
Việc cập nhật công nghệ mới, đặc biệt là robot công nghiệp, hệ thống điều khiển tích hợp AI, cảm biến thông minh, đòi hỏi sự kết nối chặt hơn giữa nhà trường và doanh nghiệp. Giải quyết cơ chế tài chính linh hoạt cho nghiên cứu và khởi nghiệp trong tự động hóa.
Do vậy, Nghị quyết 57 nêu định hướng thành lập Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược chính là mở hướng đi cho các trường đại học tháo gỡ bế tắc trong việc huy động nguồn lực xã hội hóa để đầu tư vào nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Các trường biết tận dụng các nguồn lực xã hội sẽ có phát triển trong cả đào tạo lẫn nghiên cứu và tạo nguồn thu.
Trong phần chia sẻ với báo chí ngày 16.10, PGS-TS Phạm Đình Anh Khôi, Giám đốc Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ - Trường ĐH Bách Khoa TP.HCM, khẳng định nhà trường luôn duy trì nhiều hình thức hợp tác đa dạng với doanh nghiệp, bao gồm đặt hàng nghiên cứu, tư vấn đào tạo, đồng hợp tác, đồng kiến tạo tài sản trí tuệ và đồng chuyển giao công nghệ.
Để các mối quan hệ hợp tác này đạt hiệu quả thực chất, PGS-TS Phạm Đình Anh Khôi nhấn mạnh yếu tố quan trọng hàng đầu là sự “thấu hiểu lẫn nhau” giữa hai bên: “Điều quan trọng nhất khi nhà trường làm việc với doanh nghiệp, theo tôi, là cả hai phải thật rõ ràng về ngôn ngữ và kỳ vọng của nhau. Mục tiêu chung là gì? Thời gian mong muốn hoàn thành ra sao? Chi phí thực hiện thế nào? Chỉ khi cùng hiểu và thống nhất những điều đó, hợp tác mới đi đến kết quả cụ thể”.
PGS-TS Phạm Đình Anh Khôi, Giám đốc Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ - Trường ĐH Bách Khoa TP.HCM chia sẻ về sứ mệnh của nhà trường
Về định hướng chiến lược, Trường ĐH Bách Khoa TP.HCM đặt mục tiêu trong giai đoạn 2025 - 2030 sẽ phát triển thành “trường đại học khởi nghiệp” được kiểm định quốc tế. Theo PGS-TS Khôi, để đạt được mục tiêu này, nhà trường không chỉ chú trọng vào hai trụ cột truyền thống là đào tạo và nghiên cứu, mà còn tập trung mạnh vào trụ cột thứ ba - đổi mới sáng tạo. Đó chính là quá trình thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, tạo giá trị kinh tế dựa trên tài sản trí tuệ và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Trường kỳ vọng đến năm 2030, tỷ lệ doanh thu đến từ hoạt động KH-CN và chuyển giao công nghệ sẽ đạt khoảng 35% tổng doanh thu, tương đương trung bình 350 tỉ đồng mỗi năm, tăng đáng kể so với mức hiện nay là khoảng 150 - 170 tỉ đồng.
Có thể nói, việc đẩy mạnh đào tạo nhân lực tự động hóa là bước đi chiến lược để hiện thực hóa tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW: phát triển các ngành công nghệ và công nghiệp chiến lược, trong đó tự động hóa đóng vai trò “trái tim của công nghiệp thông minh”.
Những nỗ lực đồng bộ giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp sẽ quyết định khả năng Việt Nam tự chủ về công nghệ, tiến tới làm chủ hệ thống sản xuất thông minh, và góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa công nghiệp Việt Nam vươn lên nhóm nước phát triển trong khu vực.
Bùi Tú