ĐBQH tỉnh Lâm Đồng Trần Thị Thu Hằng phát biểu góp ý Luật Tương trợ pháp lý về hình sự
Đại biểu cũng nhấn mạnh nhiều nội dung liên quan tới Nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 5).
Đại biểu cho rằng, Điều 5 dự thảo Luật đã khẳng định rõ nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi, thể hiện sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, theo đại biểu, dự thảo chưa ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền con người, quyền không bị tra tấn, quyền không bị đối xử vô nhân đạo. Trong khi đó, Việt Nam là thành viên Công ước Chống tra tấn của Liên hợp quốc. Và trên thực tế, nhiều yêu cầu tương trợ quốc tế có thể liên quan đến bắt giữ người, dẫn giải người, lấy lời khai, áp dụng các biện pháp cưỡng chế ở nước ngoài - tức là can thiệp trực tiếp vào thân thể, tự do thân thể và lời khai của công dân hoặc người đang cư trú tại Việt Nam.
Do đó, đại biểu kiến nghị phải bổ sung thêm nguyên tắc vào Điều 5, quy định theo hướng bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền không bị tra tấn và bảo đảm đối xử nhân đạo, tôn trọng nhân phẩm. Qua đó, để chúng ta có quyền từ chối tương trợ nếu yêu cầu từ nước ngoài dẫn đến nguy cơ tra tấn, truy bức, ép cung, đối xử vô nhân đạo hoặc phân biệt đối xử vì lý do chính trị, sắc tộc, tôn giáo… Điều này gắn trực tiếp với quy định tại Điểm e, Khoản 1, Điều 28 của dự thảo.
Lãnh đạo Quốc hội điều hành phiên thảo luận tại hội trường
Về ngôn ngữ trong hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 7), đại biểu cho rằng, Điều 7 quy định hồ sơ yêu cầu tương trợ phải kèm bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu hoặc ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận. Đại biểu thấy rằng quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, dự thảo chưa thừa nhận phương thức điện tử, chữ ký số, trao đổi văn bản trong môi trường số an toàn. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế có thể qua kênh điện tử bảo mật, việc chỉ cho phép tài liệu giấy, bản dịch giấy sẽ làm chậm tiến độ và đôi khi đánh mất tính thời sự của chứng cứ điện tử.
Do đó, đại biểu kiến nghị bổ sung quy định hồ sơ có thể được gửi dưới dạng điện tử kèm chữ ký số hợp lệ theo pháp luật Việt Nam và theo điều ước quốc tế liên quan, để tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch số, phù hợp với xu thế chuyển đổi số trong lĩnh vực tư pháp.
Về phạm vi tương trợ (Điều 8), đại biểu phân tích, Điều 8 đã liệt kê 11 hình thức tương trợ, giúp hệ thống hóa rõ ràng các hoạt động hợp tác. Tuy nhiên, quy định về chuyển giao tạm thời người đang bị tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù, dự thảo mới chỉ giải quyết tình huống khi thời hạn giam giữ đã hết hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thông báo không cần giam giữ nữa thì người đó được trả tự do (theo khoản 4 Điều 35).
Trong trường hợp ngược lại, thời hạn giam giữ vẫn còn và cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thông báo cần tiếp tục giam giữ thì dự thảo Luật chưa quy định rõ trình tự, thủ tục để xử lý, dễ dẫn đến khoảng trống pháp lý.
Bên cạnh đó, dự thảo mới chỉ quy định việc thu giữ, khám xét, mà chưa nêu cụ thể đối tượng của hoạt động này. Trong khi thực tiễn cho thấy, cần làm rõ là tang vật, tài liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, từ thực tiễn thi hành án hình sự và việc xử lý các nghĩa vụ liên quan đến tài sản, vật chứng, cần bổ sung hình thức “xử lý tài sản” vào phạm vi tương trợ để đồng bộ với Điều 32.
Cùng với đó, hoạt động đối chất cũng là một biện pháp tố tụng quan trọng, có giá trị tương tự lấy lời khai, nhưng chưa được nêu trong Điều 8. Do đó, đại biểu kiến nghị sửa đổi bổ sung theo hướng: "Lấy lời khai, đối chất trực tiếp, trực tuyến”; “Khám xét, thu giữ tang vật, tài liệu liên quan đến vụ án”...
Về bảo đảm an toàn (Điều 10), đại biểu đề nghị bổ sung nghĩa vụ thông báo song phương bằng văn bản, trong thời hạn cụ thể, để Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có thể giám sát việc thực hiện cam kết bảo hộ công dân.
Về cơ quan Trung ương và quy trình thủ tục (Điều 16 - 22), đại biểu đồng tình với mô hình “một đầu mối - một cơ quan Trung ương”, giúp kiểm soát rủi ro chính trị, ngoại giao, bảo đảm thống nhất. Tuy nhiên, đại biểu kiến nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc làm rõ thêm trách nhiệm phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao.
Dự thảo có quy định nhưng vẫn mang tính khung, chưa có cơ chế bắt buộc về thời hạn phản hồi giữa các cơ quan này. Do đó, Luật cần quy định rõ thời hạn cụ thể để tránh hồ sơ bị kéo dài mà không xác định được trách nhiệm thuộc về cơ quan nào. Trong khi đó, trong hợp tác hình sự quốc tế, độ trễ có thể dẫn đến rủi ro pháp lý.
Đại biểu đề nghị, cần quy định rõ thẩm quyền xử lý hồ sơ trong trường hợp khẩn cấp. Vì thực tiễn có những tình huống cần phong tỏa tài khoản hoặc thu giữ vật chứng ngay lập tức. Nếu đợi quy trình hành chính đầy đủ thì chứng cứ sẽ không còn, hoặc có thể bị thay đổi về bản chất.
Vì vậy, cần bổ sung theo hướng công nhận việc trao đổi hồ sơ, tài liệu, chứng cứ qua kênh điện tử bảo mật do cơ quan Trung ương quản lý, kèm chữ ký số, để tạo hành lang pháp lý rõ ràng.
Nguyệt Thu