Để được công nhận là 'đại học' cần 60% GV tiến sĩ, 5% GV quốc tế: Trường đại học nói gì?

Để được công nhận là 'đại học' cần 60% GV tiến sĩ, 5% GV quốc tế: Trường đại học nói gì?
4 giờ trướcBài gốc
Một trong các điều kiện để công nhận trường đại học thành đại học trong dự thảo Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) là: tỷ lệ giảng viên quốc tế tham gia giảng dạy đạt tối thiểu 5% tổng số giảng viên tại thời điểm nộp hồ sơ; Đội ngũ giảng viên cơ hữu trình độ tiến sĩ đạt tối thiểu 60%.
Theo lãnh đạo một số trường đại học, việc quy định các điều kiện công nhận đại học trong dự thảo là rất cần thiết trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Song, các tiêu chí này cần điều chỉnh theo hướng phù hợp với thực tiễn, cũng như có tính kế thừa và bền vững.
Chuẩn hóa, phân tầng và phát triển hệ thống giáo dục theo hướng thực chất hơn
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, sau nhiều năm triển khai Luật Giáo dục đại học, hệ thống các trường đã phát triển nhanh về quy mô, nhưng để nâng tầm giáo dục đại học cần có những tiêu chí khắt khe hơn. Việc siết chuẩn công nhận từ trường đại học lên đại học là cần thiết để chuẩn hóa, phân tầng và phát triển hệ thống theo hướng thực chất, tránh chạy theo tên gọi.
Trong đó, điều kiện tối thiểu 60% giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ là phù hợp, nếu xem đây là ngưỡng đầu vào khi chuyển đổi từ trường đại học lên đại học. Song, sau khi đã trở thành đại học, tỷ lệ này không nên dừng lại ở 60%, mà cần tiếp tục được nâng cao theo lộ trình để bảo đảm chất lượng học thuật và năng lực nghiên cứu đúng nghĩa của một đại học.
Bên cạnh đó, quy định tỷ lệ giảng viên quốc tế tham gia giảng dạy đạt tối thiểu 5% là một định hướng đúng, phù hợp với mục tiêu quốc tế hóa giáo dục đại học. Sự tham gia của giảng viên quốc tế giúp đa dạng hóa môi trường học thuật, nâng cao chuẩn chương trình, phương pháp giảng dạy và năng lực nghiên cứu của nhà trường.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tiêu chí này không dễ thực hiện đồng loạt. Khó khăn lớn nhất nằm ở cơ chế đãi ngộ chưa đủ cạnh tranh, thời gian cấp phép lao động kéo dài, cùng với hạn chế về ngoại ngữ và chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh tại một số đơn vị.
Để tiêu chí này khả thi, cần có cách tiếp cận linh hoạt hơn, chẳng hạn như mở rộng khái niệm “tham gia giảng dạy” theo hướng chấp nhận giảng viên quốc tế giảng dạy theo học phần, theo dự án, giảng dạy ngắn hạn, trực tuyến hoặc đồng giảng. Đồng thời, có cơ chế tài chính phù hợp để thu hút nguồn lực quốc tế.
Nếu được triển khai theo hướng đó, tỷ lệ 5% không chỉ khả thi mà còn tạo ra giá trị thực chất, góp phần thúc đẩy quốc tế hóa và nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website trường
Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng, Phòng đào tạo Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, việc nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên là rất cần thiết đối với giáo dục đại học. Tuy nhiên, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tối thiểu 60% ở thời điểm hiện tại là một thách thức với hầu hết các cơ sở đào tạo đại học đa ngành của Việt Nam. Tỷ lệ này sẽ khả thi hơn đối với các trường đại học nếu nỗ lực và phấn đấu trong vòng 5 năm tới.
Đánh giá về quy định tỷ lệ giảng viên quốc tế tham gia giảng dạy đạt tối thiểu 5%, theo thầy Nhân, đây là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng của các cơ sở giáo dục đại học, nhưng cũng đầy thách thức trong bối cảnh hiện nay.
Thực tế, các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam đang rất nỗ lực để hiện thực hóa mục tiêu này nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhưng những khó khăn về mặt pháp lý là rào cản không nhỏ. Nếu nhà nước có thể tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng hơn, đơn giản hóa các quy định về thủ tục hành chính, giúp rút ngắn thời gian trong việc ký kết và triển khai hợp tác, thì các đơn vị đào tạo hoàn toàn có đủ khả năng đạt được mục tiêu này.
Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng, Phòng đào tạo, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC
Cùng bàn về vấn đề này, lãnh đạo một trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, quy định đội ngũ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ đạt tối thiểu 60% là mức khả thi để chuyển đổi trường đại học thành đại học. Để mở ngành đào tạo mới, cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng được điều kiện về trình độ giảng viên, đặc biệt là giảng viên có trình độ tiến sĩ. Do đó, các đơn vị đang rất quan tâm và chú trọng đến công tác phát triển đội ngũ giảng viên về cả số lượng lẫn chất lượng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, cũng như đáp ứng được nhu cầu xã hội về ngành nghề.
Hơn nữa, nhà nước đã và đang có nhiều chính sách để thu hút, đãi ngộ và đào tạo để nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục nói chung và cơ sở giáo dục đại học nói riêng.
Đối với quy định tỷ lệ giảng viên quốc tế tham gia giảng dạy đạt tối thiểu 5% trên tổng số giảng viên, đây là ngưỡng hoàn toàn có cơ sở để thực hiện. Bởi trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ, các trường đại học đang thực hiện chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 đi kèm với nhiều chính sách đãi ngộ để thu hút nhà khoa học, chuyên gia giỏi là người nước ngoài hoặc người Việt Nam đang công tác ở nước ngoài về tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Nếu thực hiện được tiêu chí này, cơ sở giáo dục đại học sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo và tạo ra môi trường học thuật đa văn hóa. Song, để đảm bảo chất lượng giảng dạy, nên có các tiêu chuẩn cụ thể để xác định giảng viên quốc tế, chẳng hạn như kinh nghiệm giảng dạy, công bố quốc tế hoặc giải thưởng khoa học,...
Cần hoàn thiện các cơ chế hỗ trợ đi kèm trong thu hút giảng viên, đặt hàng nghiên cứu
Đáng chú ý, để được công nhận đại học, dự thảo còn quy định tỷ trọng thu từ hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải đạt tối thiểu 20% tổng thu của cơ sở giáo dục.
Đánh giá về yêu cầu này, theo thầy Nguyễn Xuân Hoàn, đây là điểm tiến bộ, phù hợp với xu thế. Tiêu chí này thể hiện rõ vai trò của đại học là nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đóng góp cho xã hội, thay vì chỉ tập trung vào đào tạo. Đồng thời cũng cho thấy định hướng rõ ràng trong việc chuyển các cơ sở giáo dục đại học từ mô hình “dạy là chính” sang mô hình tạo ra tri thức, công nghệ và giá trị gia tăng cho xã hội.
Tuy nhiên, đây là một thách thức lớn đối với các cơ sở giáo dục đại học, bởi thực tế hiện nay, nguồn thu của nhiều trường vẫn chủ yếu đến từ học phí, trong khi hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa mạnh, mối liên kết với doanh nghiệp còn hạn chế.
Để đạt được tiêu chí này, các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng chiến lược phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo một cách bài bản, gắn nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và địa phương. Đồng thời, hình thành các trung tâm nghiên cứu, trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp, chuyển giao công nghệ và dịch vụ khoa học.
Bên cạnh nỗ lực của các đơn vị là trường đại học, cần có cơ chế chính sách đồng bộ từ Nhà nước, như đặt hàng nghiên cứu, khuyến khích doanh nghiệp hợp tác với trường đại học và tháo gỡ rào cản về tài chính, sở hữu trí tuệ, để tiêu chí 20% trở thành động lực phát triển thực chất, không chỉ là con số mang tính hình thức.
Giảng viên và sinh viên Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường.
Thầy Hoàn cũng nhấn mạnh, để các tiêu chí vừa nâng cao chất lượng, vừa phù hợp với điều kiện hiện nay, cần thiết kế theo hướng linh hoạt và có lộ trình. Bên cạnh các chỉ số về đội ngũ và tài chính, nên bổ sung hoặc coi trọng hơn các tiêu chí về chất lượng đầu ra, như năng lực người học, mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, hiệu quả hợp tác với doanh nghiệp và tác động xã hội của hoạt động khoa học – công nghệ.
Ngoài ra, cần hoàn thiện các cơ chế hỗ trợ đi kèm, đặc biệt là chính sách đào tạo, thu hút giảng viên trình độ cao; cơ chế đặt hàng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; cải cách thủ tục hành chính trong hợp tác quốc tế. Khi tiêu chí đi kèm với điều kiện thực thi phù hợp, quy định sẽ trở thành động lực phát triển thực chất cho hệ thống giáo dục đại học, thay vì chỉ là áp lực về mặt chuẩn mực.
Trong khi đó, theo thầy Nguyễn Trung Nhân, quy định tỷ trọng thu từ hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt tối thiểu 20% tổng thu của cơ sở giáo dục đại học là một thách thức lớn đối với các trường đại học hiện nay. Con số này cũng cao hơn rất nhiều so với chuẩn cơ sở giáo dục đại học đã được ban hành theo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bởi trong thực tế, việc tăng nguồn thu từ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố chứ không phải chỉ có sự nỗ lực của riêng cơ sở đào tạo.
Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT quy định, tỉ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ (có tính trọng số theo lĩnh vực), tính trung bình trong 3 năm gần nhất không thấp hơn 5%.
Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website trường.
Thầy Nhân cũng nhấn mạnh, việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu là nhiệm vụ cốt lõi của các cơ sở giáo dục, điều này không phụ thuộc cơ sở giáo dục này là đại học hay trường đại học, học viện. Do đó, việc đưa ra các tiêu chuẩn để tất cả các cơ sở đào tạo đại học phải nỗ lực, phấn đấu để đạt và vượt là cần thiết nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu của giáo dục đại học Việt Nam.
"Theo tôi, việc chuyển từ trường đại học thành đại học cần xem xét thêm một số tiêu chí về sự đa dạng ngành, lĩnh vực đào tạo, đa dạng trình độ và chương trình đào tạo; chú ý đến các ngành, lĩnh vực thiết yếu phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước,...
Tôi mong muốn các tiêu chí cần điều chỉnh theo hướng phù hợp với thực tiễn của giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, cũng như có tính kế thừa và bền vững", thầy Nhân bày tỏ.
Mạnh Dũng
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/de-duoc-cong-nhan-la-dai-hoc-can-60-gv-tien-si-5-gv-quoc-te-truong-dai-hoc-noi-gi-post256955.gd