Trong dự thảo Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học nhấn mạnh về việc đặt tên cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam.
Liên quan đến thực tế trên, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với một số chuyên gia giáo dục để tìm hiểu về cách đặt tên gọi cơ sở giáo dục đại học tại một số quốc gia phát triển về giáo dục trên thế giới.
Quy định phân biệt rõ rệt giữa khối giáo dục đại học công và tư
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Nhật Nguyên – công tác tại Viện Kinh doanh Rouen trực thuộc Đại học đa ngành Rouen Normandy (Pháp) cho hay, tại Pháp, giáo dục đại học được chia làm hai khối rõ rệt: công lập và tư thục.
Cụ thể, đối với khối công lập, Bộ Giáo dục đại học, Nghiên cứu và Đổi mới Cộng hòa Pháp nắm toàn quyền quyết định việc thành lập cũng như tên gọi của các cơ sở giáo dục đại học thông qua sắc lệnh của Bộ.
Trong khi đó, các trường tư hoạt động dưới sự chi phối của nhà đầu tư, phòng thương mại cấp vùng và chịu sự giám sát của Nhà nước về mặt pháp lý. Một số trường đại học tư hoạt động vì lợi ích cộng đồng - điển hình như HEC Paris hay ESSEC - được Nhà nước cấp nhãn xác nhận thực hiện nhiệm vụ dịch vụ công trong giáo dục đại học. Với những trường được cấp nhãn này, điều kiện bắt buộc là phải chứng minh được cơ chế quản lý không vụ lợi và cam kết tính phi lợi nhuận trong toàn bộ hoạt động.
Mang tính chất lịch sử và quy định bởi luật giáo dục hiện hành, các trường tư không được phép sử dụng từ “quốc gia” - từ này chỉ được sử dụng cho các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Ảnh minh họa. Nguồn: www.campusfrance.org
Tuy nhiên, trong khối công lập của Pháp cũng cần phân biệt rõ hai mô hình đào tạo là Trường lớn (Grandes Écoles) và Đại học ( Université).
Đối với các Trường lớn, do yếu tố lịch sử, có thể mang hoặc không mang từ “quốc gia” trong tên gọi. Đơn cử như Trường Bách Khoa (Ecole Polytechnique) hay Trường Quốc gia Văn khố và Cổ tự học (Ecole nationale des chartes) - Tên gọi của các trường này đã có từ lâu đời và không thay đổi. Đây là các trường đào tạo công chức ở Pháp.
Theo cách tuyển sinh truyền thống, các sinh viên tại những cơ sở giáo dục đại học như vậy phải trải qua một kỳ thi tuyển gắt gao sau hai năm học dự bị. Một khi được trúng tuyển, các sinh viên này tất yếu trở thành công chức và được nhà nước trả lương để học đại học. Sau khi tốt nghiệp, những sinh viên này phải làm việc trong môi trường nhà nước và đôi khi phải chịu sự điều phối nơi làm việc bởi nhà nước. Về hệ thống quản trị của các cơ sở giáo dục đại học này, Bộ Đại học và Nghiên cứu của Pháp thực hiện bổ nhiệm các lãnh đạo trường đại học.
Trong khi đó, các đại học công lập sẽ có nhiệm vụ đào tạo số lượng lớn sinh viên nhằm cung cấp cho thị trường lao động. Sinh viên được tuyển chọn dựa trên hồ sơ và không được nhà nước trả lương khi học. Hệ thống quản trị ở các trường đại học này sẽ thông qua bầu cử nội bộ, nhà nước ít can thiệp vào vấn đề này.
Một đặc điểm đáng chú ý khác là tên gọi của các trường đại học ở Pháp thường gắn liền với tên thành phố nơi trường đặt trụ sở. Dưới tác động của phong trào sinh viên tháng 5/1968, một số trường đại học còn có sự phân hóa về khuynh hướng chính trị. Chẳng hạn, Đại học Lyon 3 và Đại học Lyon 2 của Pháp được tách ra từ Đại học Lyon, trong đó Lyon 3 mang khuynh hướng cánh hữu, còn Lyon 2 nghiêng về cánh tả. Xu hướng lựa chọn trường của sinh viên cũng phần nào chịu ảnh hưởng từ đặc điểm này, tương tự như trường hợp của Paris 1 và Paris 2.
Hiện nay, tại Pháp, trên tinh thần tinh gọn bộ máy và cải cách đại học, một số Trường lớn đã sát nhập với các trường đại học tạo nên các siêu đại học, ví dụ như Trường Bách Khoa (Ecole Polytechnique) đã sáp nhập với một số trường đại học và lấy tên gọi là Paris-Saclay; Đại học Gustave Eiffel cũng được thành lập vào năm 2019 thông qua sự sáp nhập các trường lớn như Trường Quốc gia Khoa học địa lý, Trường kỹ sư thành phố Paris… vào Trường Đại học Paris-Est-Marne-la-Valleé. Tên gọi của các trường này đều được ấn định bằng sắc lệnh của Chính phủ.
Cũng theo Giáo sư Nguyễn Nhật Nguyên, tại Pháp, các Trường lớn thuộc khối công lập rất nổi tiếng trong việc đào tạo tầng lớp tinh hoa của quốc gia này. Vì tính chất lịch sử, chất lượng giáo dục, và tính chất công vụ, các trường này không gặp khó khăn trong khâu tuyển sinh; hàng năm, mặc số lượng tuyển sinh vào những trường này là rất hạn chế nhưng số lượng thí sinh đăng ký thi vào lại cực kỳ cao. Các trường đại học ở những thành phố lớn như Paris, Marseille, Lyon, Strasbourg cũng thường hấp dẫn, thu hút phụ huynh và sinh viên.
Trên thực tế, việc lựa chọn trường đại học tại Pháp của người học thường chịu tác động theo thứ tự ưu tiên gồm: chất lượng sống của thành phố, quy mô đô thị, sự thuận tiện trong di chuyển và mức độ nổi tiếng của các khoa đào tạo. Do đó, tên trường đại học gắn với địa danh có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định học tập của mỗi sinh viên, học viên.
Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Minh Triết – Kỹ sư phần cứng Y sinh học (Biomedical Hardware Engineer) tại Công ty công nghệ vật liệu (Archer Materials) ở thành phố Sydney, Úc bày tỏ, từ góc độ cá nhân là người học và người từng làm nghiên cứu chuyên môn ở một số quốc gia như Hàn Quốc hay Úc nhìn chung rất đa dạng, phản ánh về phạm vi địa lý, định hướng đào tạo hay lịch sử hình thành.
Ví dụ, tên của các đại học có thể gắn với tên của các thành phố như University of Sydney, University of Melbourne; hay gắn với tên tiểu bang như University of New South Wales; gắn với tên quốc gia như Australian National University; gắn với lĩnh vực đào tạo như University of Technology Sydney; hoặc tên riêng mang tính lịch sử và văn hóa như trường Sungkyunkwan University ở Hàn Quốc.
Thông thường, người học cũng như phụ huynh thường lựa chọn cơ sở đào tạo dựa trên các bảng xếp hạng uy tín thế giới như QS (Quacquarelli Symonds) hay THE (Times Higher Education), danh tiếng học thuật, chất lượng nghiên cứu, mạng lưới cựu sinh viên, hoặc theo lời tư vấn của những người có kinh nghiệm đi trước để có cái nhìn thực tế và cụ thể. Có thể thấy rằng, tên gọi của cơ sở giáo dục đại học chỉ là hình thức nhận diện ban đầu, trong khi chất lượng đào tạo và uy tín học thuật mới là những yếu tố quyết định trong việc chọn lựa.
Cũng theo Tiến sĩ Triết, cần lưu ý rằng, tên gọi của một cơ sở giáo dục đại học khó có thể phản ánh đầy đủ hay trực tiếp tới năng lực đào tạo hay nghiên cứu của cơ sở đó. Năng lực đào tạo và nghiên cứu của trường hay đại học thường dựa vào nhiều yếu tố mang tính nền tảng và cần có thời gian để tích lũy lâu dài, có thể kể tới như như giảng viên và nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm và thâm niên, cơ sở vật chất, môi trường học thuật và hợp tác, cũng như mức độ đầu tư của cơ sở giáo dục đó cho nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Trong nhiều trường hợp, tên cơ sở giáo dục đại học nên/thường phản ánh nhiều hơn tới lịch sử hình thành, bối cảnh văn hóa xã hội hoặc vai trò ban đầu của cơ sở thay vì thể hiện trực tiếp về năng lực đào tạo hay nghiên cứu cơ sở, điều mà người học hay phụ huynh muốn quan tâm hơn cả. Ngoài ra, danh tiếng và uy tín của mỗi cơ sở giáo dục đại học thường được xây dựng theo thời gian dài, thông qua các kết quả nghiên cứu, đóng góp khoa học, đào tạo chất lượng học sinh sinh viên tốt nghiệp và ảnh hưởng của đại học đối với xã hội và thế giới, ví dụ như hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, chứ không chỉ dựa vào tên gọi đơn thuần.
Cần thiết có một giải pháp mang tính lâu dài để chuẩn hóa tên các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
Về thực trạng ở Việt Nam, Tiến sĩ Triết cho rằng, thực tế việc một số cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam sử dụng các tên gọi mang tính quốc tế hoặc thể hiện vị thế đặc biệt có thể đang gây ra sự nhầm lẫn đối với người đọc, đặc biệt là sinh viên và phụ huynh khi chưa có nhiều thông tin hoặc chưa có kinh nghiệm trong việc đánh giá chất lượng giữa các cơ sở giáo dục. Do đó, cần thiết có một giải pháp mang tính lâu dài để chuẩn hóa tên của các cơ sở giáo dục đại học trong nước.
Đơn cử, nên có một quy tắc thống nhất trong việc chuẩn hóa các tên gọi của cơ sở giáo dục đại học để tránh gây hiểu lầm cho người học, đặc biệt là phụ huynh. Khung quy định nên làm rõ những tiêu chí hoặc là điều kiện cần thiết để sử dụng các thuật ngữ mang tính quốc gia hay quốc tế; đồng thời vẫn giữ được linh hoạt cho các cơ sở giáo dục (ví dụ như quy định rõ cơ sở như thế nào được dùng các từ mang tính quốc gia hay mang tính hợp tác quốc tế).
Bên cạnh việc đặt tên, các trường đại học cũng cần công khai việc xếp hạng, năng lực đào tạo và nghiên cứu, hợp tác các doanh nghiệp/cở sở học thuật trong và ngoài nước, cũng như cơ hội việc làm sau tốt nghiệp nhằm phản ánh được đúng năng lực thực và đúng với tên cơ sở đào tạo của mình.
Đối chiếu với thực tiễn tại Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Nhật Nguyên bày tỏ, việc xây dựng quy định pháp lý rõ ràng cho tên gọi các cơ sở giáo dục đại học là cần thiết. Điều này giúp tránh được sự nhập nhằng tên gọi có thể xảy ra sau này khi một cơ sở giáo dục đại học mới được thành lập, hoặc việc sáp nhập các trường đại học theo chủ trương.
“Tôi cho rằng, việc đặt tên của cơ sở giáo dục đại học nên được thông qua sự phê chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đặc biệt, các từ như "quốc gia"; "national" nên được trao cho các trường đại học công lập với cam kết phục vụ lợi ích quốc gia và mang tính chất phi lợi nhuận; hoặc các trường đại học mang tính chất trọng điểm và lâu đời.
Bên cạnh đó, để nhận diện thương hiệu trên thị trường quốc tế, tên gọi các cơ sở giáo dục đại học nếu được nên được gắn liền với một địa danh, địa phương của mình", thầy Nguyên nhấn mạnh.
Tường San