Ứng dụng máy móc, công nghệ tiên tiến vào sản xuất là yếu tố quan trọng để giảm chi phí, tăng lợi nhuận trong sản xuất lúa. (Trong ảnh: Sử dụng máy bay không người lái để bón phân, phun thuốc BVTV tại phường Yên Thắng). Ảnh: Trường Giang
KỲ 2: LÀM GIÀU TỪ CÂY LÚA: BÀI TOÁN ĐẤT ĐAI, THƯƠNG HIỆU VÀ TÍN CHỈ CARBON
Những thách thức bộc lộ qua vụ Mùa 2025
Vụ mùa 2025 là một phép thử khắc nghiệt, khi ngành lúa gạo Ninh Bình không chỉ phải đối mặt với thiên tai và biến đổi khí hậu mà còn chịu tác động kép từ sự giảm giá lúa gạo trên thị trường. Những khó khăn này đã bộc lộ rõ những tồn tại cần tháo gỡ.
Biến đổi khí hậu là một thực tế đang hiện hữu, tác động trực tiếp và ngày càng gay gắt đến sản xuất lúa. Việc vụ Mùa vừa qua chịu ảnh hưởng trực tiếp của 5 cơn bão cùng lượng mưa lớn kỷ lục đã cho thấy tình hình khí hậu sẽ ngày càng khắc nghiệt, đe dọa trực tiếp đến năng suất và chất lượng lúa gạo, đòi hỏi phải sẵn sàng ứng phó.
Thời gian qua, hệ thống thủy lợi cho canh tác lúa đã được đầu tư nâng cấp để phòng, chống hạn hán, mưa ngập, triều cường, lũ, ngăn mặn. Tuy nhiên, với tình hình biến đổi khí hậu phức tạp, hệ thống này cần phải được tiếp tục đầu tư để không chỉ chống chọi với thiên tai, mà còn phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cao của sản xuất hiện đại. Cụ thể, hệ thống thủy lợi cần phải phục vụ vùng sản xuất chuyên canh, quy mô lớn, áp dụng đồng bộ cơ giới hóa, đáp ứng yêu cầu canh tác trong tình hình mới.
Máy móc hiện đại thu hoạch lúa, nhưng thiếu hệ thống sấy, kho chứa vẫn làm giảm phẩm cấp lúa thu về (Trong ảnh: Thu hoạch lúa ở phường Hoa Lư). Ảnh: Nguyễn Lựu
Ngoài ra, chính điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt là mưa ẩm liên tục rơi đúng vào thời điểm thu hoạch, đã cho thấy rõ những hạn chế về hạ tầng sau thu hoạch của chúng ta. Việc thiếu hệ thống sấy, kho chứa và logistics đồng bộ, hiện đại dẫn đến hậu quả là lúa thu hoạch về không phơi được, không có lò sấy nên bị giảm phẩm cấp, chất lượng.
Mọi vấn đề đều có gốc rễ sâu xa từ việc sản xuất lúa vẫn ở quy mô nông hộ nhỏ, đất đai manh mún. Tình trạng này cản trở việc đưa cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất và là rào cản lớn nhất đối với việc đầu tư hạ tầng chế biến và bảo quản hiện đại.
Cùng với rủi ro khí hậu, sự biến động của giá lúa trên thị trường trong vụ mùa 2025 đã làm “lung lay” tâm lý sản xuất của nông dân. Sự bấp bênh này xuất phát từ việc liên kết tiêu thụ còn chiếm tỷ lệ rất thấp, chưa bền vững. Tỷ lệ liên kết thấp đồng nghĩa với việc đại bộ phận nông dân phải đối diện trực tiếp với áp lực thị trường.
Tầm nhìn chiến lược và chính sách đột phá
Sự kết hợp giữa những rủi ro ngoại cảnh và những tồn tại nội tại đã đặt ra một thách thức lớn, cấp thiết, cần có các giải pháp chiến lược. Trong đó, để phá vỡ rào cản sản xuất manh mún, cần có các chính sách mạnh mẽ để khuyến khích tích tụ ruộng đất cho lớp “đại điền”, tạo ra các cánh đồng lớn thực sự. Khi quy mô lớn được thiết lập, việc áp dụng đồng bộ cơ giới hóa và các quy trình kỹ thuật tiên tiến sẽ trở nên khả thi và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Cuốn rơm sau thu hoạch giúp biến rơm rạ thành hàng hóa, góp phần gia tăng giá trị kinh tế và thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Ảnh: Nguyễn Lựu
Một thế hệ nông dân mới đang sẵn sàng tiên phong nhưng rất cần sự hỗ trợ kịp thời để tích tụ đất đai thành công. Đại điền Trịnh Viết Chiến (thành phố Hoa Lư) chia sẻ: Việc thuê đất để mở rộng sản xuất ở nhiều địa phương không hề đơn giản. Một số người mặc dù đã có việc làm ổn định từ các lĩnh vực khác, không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp và thậm chí có người sẵn sàng bỏ ruộng hoang nhưng cũng không muốn chuyển nhượng, cho người khác thuê lại đất. Một số hộ khác không chịu đổi ruộng, thậm chí cho thuê rồi nhưng khi thấy người khác làm ăn hiệu quả lại muốn lấy về...
Anh Vũ Văn Bắc (xã Quang Thiện) nêu một khía cạnh khác: Ruộng đất đi thuê vốn manh mún, tích tụ mất rất nhiều công sức, đã vậy thời gian thuê lại thường chỉ 3-5 năm. Thời gian ngắn như vậy chúng tôi rất khó làm vì không thể mạo hiểm đầu tư lớn để san mặt ruộng hay làm kênh mương thủy lợi được.
Phát triển "giá trị vô hình" của hạt gạo thông qua việc kết nối nông nghiệp với du lịch. (Trong ảnh: Du khách tham quan cánh đồng lúa Tam Cốc). Ảnh: Nguyễn Lựu
Khi đã giải quyết được bài toán tổ chức sản xuất, các giải pháp tiếp theo sẽ tập trung vào công nghệ và chất lượng để tối đa hóa giá trị hạt gạo. Việc kiến tạo một ngành lúa gạo bền vững cần một tầm nhìn chiến lược quyết liệt. Ông Lâm Văn Chiểu, Phó Giám đốc Công ty TNHH Cường Tân, chỉ ra rằng Ninh Bình có rất nhiều lợi thế tĩnh trong sản xuất lúa gạo so với địa phương khác vùng đồng bằng sông Hồng, nhờ tỷ lệ keo đất, chất đất tốt, độ dốc thoát nước thuận, nhiều giờ nắng, và con người có kinh nghiệm thâm canh lúa.
Tuy nhiên, Phó Giám đốc Công ty TNHH Cường Tân nhấn mạnh, các yếu tố tự nhiên này chỉ quyết định 30% thành công. 70% còn lại phụ thuộc vào sự vận động và quyết tâm của người lãnh đạo ngành nông nghiệp, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách như Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Theo ông, vấn đề cốt lõi là làm thế nào để đưa khoa học công nghệ đến với nông dân một cách hiệu quả, xác định được con đường và trọng tâm phát triển phù hợp. Điều này đòi hỏi phải quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp tập trung, công nghệ cao, đồng thời tạo điều kiện về vốn vay và hỗ trợ thông qua các doanh nghiệp đầu tàu để dẫn dắt sự thay đổi này. Cần nhân rộng mô hình liên kết chặt chẽ, nơi doanh nghiệp đóng vai trò là “bảo hiểm” và người hướng dẫn kỹ thuật. Cần có cơ chế ưu tiên, ưu đãi, khuyến khích đối với các đơn vị có chuỗi liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm, có hệ thống kho chứa, logistics đồng bộ, hiện đại.
Về góc độ nhà quản lý, đồng chí Nguyễn Sinh Tiến, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Thứ nhất, trong công tác tổ chức lại sản xuất, tới đây chúng tôi sẽ mở rộng và phát huy hiệu quả các mô hình thuê gom, tập trung ruộng đất, hình thành các cánh đồng lớn, cánh đồng liên kết, tổ chức các chuỗi giá trị lúa gạo từ sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Đặc biệt, để tháo gỡ triệt để rào cản manh mún và tâm lý giữ đất, Sở sẽ tham mưu ban hành các chính sách đột phá về thời hạn thuê đất ổn định, giúp các đại điền yên tâm đầu tư lâu dài, tạo động lực thực sự cho việc tích tụ đất thành công.
Thứ hai, về công nghệ và thích ứng với biến đổi khí hậu, Sở sẽ tăng cường chuyển giao khoa học công nghệ, hỗ trợ nông dân đẩy mạnh cơ giới hóa, thực hiện các quy trình kỹ thuật tiên tiến, biện pháp thâm canh bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu, giảm sử dụng các loại phân bón vô cơ, hóa chất bảo vệ thực vật. Trong đó, một giải pháp trọng tâm là mở rộng mô hình áp dụng biện pháp canh tác lúa tưới ướt khô xen kẽ (AWD), thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm nâng cao hiệu quả canh tác, giảm phát thải khí mê-tan (CH4), tạo tín chỉ carbon, tiết kiệm nước tưới và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Thứ ba, tăng số hóa đồng ruộng, quản lý mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc. Đáng chú ý, chúng tôi sẽ kiến nghị cơ chế ưu đãi về vốn và mặt bằng để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ngay vào hệ thống sấy, kho chứa và logistics đồng bộ, hiện đại, đặc biệt tại các vùng sản xuất tập trung.
Cuối cùng, về phát triển giá trị hạt gạo, chúng tôi xác định phải tập trung phát triển công nghiệp sau gạo, chế biến sâu và thương hiệu hóa sản phẩm. Đặc biệt, kết nối nông nghiệp với du lịch và kinh tế sáng tạo. Khi hạt gạo không chỉ là lương thực, mà còn là nguyên liệu cho ẩm thực, mỹ phẩm, dược phẩm, thời trang, du lịch trải nghiệm, lúc đó “giá trị vô hình” của hạt gạo sẽ lớn hơn rất nhiều so giá trị hữu hình.
Như vậy, với sự kết hợp đồng bộ giữa tổ chức lại sản xuất (tích tụ đất, góp vốn), công nghệ đột phá (giảm phát thải, số hóa) và dẫn dắt chiến lược (doanh nghiệp đầu tàu), Ninh Bình sẽ có đủ tiềm lực để kiến tạo một ngành lúa gạo thịnh vượng, bền vững.
Nguyễn Lựu