Khi nói đến bản sắc đô thị, ta đang nói đến sự kết tinh giữa tự nhiên, lịch sử và con người, là ký ức tập thể được lưu giữ trong từng mái ngói, con phố, tập quán và nhịp sống của cư dân. Một thành phố chỉ thực sự “sống” khi nó còn có thể kể lại câu chuyện của chính mình. Đó là câu chuyện về nguồn gốc, về cách con người thích nghi, xây dựng và mơ ước.
Những đô thị như Hà Nội, Hội An, Huế, Đà Lạt… tồn tại bền vững qua thời gian không chỉ nhờ vị trí hay kiến trúc mà vì chúng mang một hồn cốt riêng. Như Hà Nội với văn hóa làng trong lòng phố, Huế với nếp sống cung đình và sự trầm mặc, Hội An với di sản thương cảng và giao lưu giữa nhiều nền văn hóa khác nhau, Đà Lạt với khí hậu mộng mơ và kiến trúc Pháp hòa quyện thiên nhiên...
Bản sắc đô thị chính là thứ tạo nên sự khác biệt, niềm tự hào và khả năng nhận diện, điều khiến cư dân cảm thấy gắn bó, thuộc về, còn tha nhân thì phải lòng đắm say.
Mối âu lo tới từ đô thị phổ quát
Trong cơn lốc hiện đại hóa, rất nhiều đô thị đang dần đánh mất giọng nói riêng. Kiến trúc sư Rem Koolhaas (giải thưởng Pritzker năm 2000) gọi đó là “đô thị phổ quát” (generic city), mọi thành phố trở nên trông giống hệt nhau, với những cao ốc kính, đại lộ rộng thênh thang, trung tâm thương mại sáng rực đèn, nhưng lại không có linh hồn. Khi bản sắc bị xóa mờ, đô thị chỉ còn là khung trống chức năng, vận hành hiệu quả nhưng thiếu cảm xúc, thiếu kỷ niệm, thiếu tính người.
Rõ ràng khái niệm đô thị phổ quát của Koolhaas vừa mang tính phê phán, vừa là suy tư triết học về tương lai đô thị. Nó là sản phẩm tất yếu của thời đại toàn cầu, tức là một đô thị không có quá khứ, không bản sắc, nhưng lại hấp thụ được mọi yếu tố đa dạng. Ông cho rằng trong bối cảnh hiện đại, việc bám chặt vào ký ức hay cố bảo tồn “chất cũ” đôi khi trở nên nặng nề, cản trở sự sáng tạo và khả năng thích ứng. Thành phố, theo đó, có thể giải phóng mình khỏi lịch sử để trở thành một sinh thể mở, ở đó cái mới liên tục thay thế cái cũ.
Hình ảnh mà Koolhaas dùng để minh họa là sân bay, biểu tượng của đô thị thế kỷ XXI. Nếu nhà ga từng là trung tâm của đô thị công nghiệp thế kỷ XIX thì sân bay là trái tim của đô thị toàn cầu: tất cả hiện đại theo cùng một cách, không quá khứ, không ranh giới, không đặc tính riêng. Những thành phố như vậy dù vận hành trơn tru lại mang một vẻ trống rỗng bản sắc khi mọi sự khác biệt bị hòa tan trong tiện nghi và tốc độ.
Koolhaas xem đô thị phổ quát như một sự chấp nhận trần trụi rằng thế giới đang bước vào kỷ nguyên của tính vô danh, nơi lịch sử và bản sắc trở thành xa xỉ. Tuy nhiên chính điều đó cũng đặt ra câu hỏi ngược lại: “Nếu mọi thành phố đều giống nhau thì đâu là điều khiến con người còn muốn ở lại, gắn bó, hay tự hào về thành phố của mình?”.
Hà Nội là thành phố của ký ức, nơi những lớp làng nghề, đình chùa, phố phường chồng lên nhau như lớp địa tầng văn hóa sống. Tranh: họa sĩ trẻ Trần Nam Long
Tại Việt Nam, điều này thể hiện rõ qua sự đồng dạng của các khu đô thị mới từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng là mô hình “phố châu Âu thu nhỏ”, “Venice bên sông”, “thành phố sinh thái” hay “thông minh”, những mỹ từ đẹp nhưng xa lạ với gốc văn hóa bản địa. Sự đồng dạng tựa như khoác lên đô thị những bộ đồng phục khiến người ta dần quên mất rằng mỗi thành phố là một sinh thể duy nhất, mang trong nó trầm tích của hàng thế kỷ sinh tồn và sáng tạo.
Khi những khu phố cũ bị thay bằng trung tâm thương mại, khi những hồ ao làng bị lấp, những nếp nhà tập thể bị phá bỏ, ta không chỉ mất đi không gian vật chất mà còn đánh mất một phần ký ức tập thể của cộng đồng.
Bản sắc là nguồn lực phát triển đô thị
Bản sắc đô thị không đơn thuần là hoài niệm văn hóa mà còn là nguồn lực phát triển. Khái niệm city branding (định vị thương hiệu đô thị) ra đời từ nhận thức rằng mỗi thành phố giống như một con người, cần biết kể câu chuyện của chính mình để được nhận ra, để thu hút đầu tư, du khách và cư dân mới.
Tokyo định vị mình là thành phố của trật tự và công nghệ, đối xứng là Kyoto cố đô cổ kính; Copenhagen tự hào là đô thị xanh - bền vững; Seoul là đô thị sáng tạo kết hợp truyền thống và hiện đại; còn Singapore là hình mẫu về quản trị và hiệu quả. Tất cả đều khởi đầu từ việc nhận diện bản sắc cốt lõi rồi từ đó chuyển hóa nó thành chiến lược phát triển.
Ở Việt Nam, những đô thị có bề dày lịch sử đều bắt nguồn từ sự liên kết hài hòa giữa con người và tự nhiên, giữa địa thế và văn hóa. Mỗi thành phố lớn lên như một “sinh thể văn hóa” mang căn cước riêng, từ những di sản vật thể cho tới cách cư dân của nó ứng xử với thiên nhiên, lịch sử và thời gian.
Huế là một ví dụ điển hình khi được bao bọc bởi sông Hương và núi Ngự, nơi yếu tố phong thủy và triết lý “thuận thiên” trở thành trục định hướng quy hoạch. Huế giữ nhịp sống trầm, nhưng chính sự tĩnh lặng đó lại làm nên một thành phố văn hóa sáng tạo được UNESCO công nhận, cho phép ký ức cung đình và đời sống đương đại giao thoa mà vẫn bảo lưu trong phát triển. Hội An hình thành từ dòng chảy giao thương Đông - Tây, là kết quả của sự dung hợp văn hóa Việt, Hoa, Nhật và phương Tây, nhưng vẫn thống nhất trong cấu trúc không gian và nếp sống cộng đồng. Ở đó bản sắc không nằm ở sự cố định mà ở khả năng tiếp biến và thích nghi, những yếu tố cốt lõi giúp Hội An tồn tại và được yêu mến đến hôm nay.
Huế được biết tới như là “đô thị cung đình”, nơi nhịp sống chậm là cách người dân gìn giữ ký ức lịch sử và phong vị văn hóa. Ảnh: Trần Thanh Quang
Trong khi đó Đà Lạt là đô thị “cảnh quan” hiếm có ở Đông Nam Á, thể hiện sự hòa quyện giữa khí hậu ôn đới và bàn tay thiết kế của người Pháp, được người Việt gìn giữ và biến thành thương hiệu tự nhiên. Đà Lạt hiện đại hóa từng ngày nhưng mỗi lần sương giăng vẫn khiến người ta cảm thấy như đang chạm vào một mảnh ký ức sống động của quá khứ. Còn Hà Nội - Thăng Long, đô thị ngàn năm văn hiến, chính là “đô thị ký ức” tiêu biểu. Ở đây những lớp làng nghề, đình chùa, phố phường, biệt thự Pháp và khu tập thể thời bao cấp chồng xếp lên nhau như các tầng địa chất văn hóa, tạo nên một bức tranh đô thị độc nhất, vừa cổ kính vừa hiện đại.
Từ Huế, Hội An, Đà Lạt đến Hà Nội, có thể thấy rằng bản sắc không phải là vật cản phát triển mà là nền tảng bền vững cho một tương lai khác biệt. Một thành phố có thể hiện đại, thông minh, thậm chí toàn cầu hóa nhưng vẫn cần có phong vị riêng để được nhận diện, được yêu và được nhớ. Chiến lược phát triển của một đô thị, thay vì một phương kế quy hoạch mang tính chất cào bằng, đồng phục, nay phải đặt việc xác định tính chất đặc thù địa điểm và bản sắc đô thị lên hàng đầu.
Hoa Lư - Ninh Bình và câu chuyện di sản
Hoa Lư - Ninh Bình có thể xem là trường hợp đặc biệt khi chọn cho mình bản sắc then chốt là “đô thị thiên niên kỷ”, bởi đây là đô thị hiếm hoi hội tụ đồng thời di sản thiên nhiên, di sản văn hóa và tiến trình lịch sử liên tục của con người.
Theo tiêu chí (v) của UNESCO và là một trong ba tiêu chí để được ghi danh di sản thế giới vào năm 2014, Quần thể danh thắng Tràng An là một thí dụ nổi bật về sự tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên ở khu vực Đông Nam Á, minh chứng cho hơn 30.000 năm lịch sử phát triển liên tục. Nói cách khác, nơi đây lưu giữ dấu vết độc đáo của sự thích nghi và cộng sinh giữa con người - tự nhiên, từ cư dân hang động tiền sử, cư dân nông nghiệp cổ cho đến kinh đô Đại Cồ Việt thế kỷ X, cho thấy một mạch nối không gián đoạn giữa thiên nhiên, văn hóa và lịch sử.
Hoa Lư - đô thị thiên niên kỷ giữa lòng Tràng An, nơi di sản và thiên nhiên cùng định hình bản sắc đô thị trong suốt 30.000 năm. Ảnh: CTV
Chính nền tảng ấy được Ninh Bình lựa chọn làm trục phát triển chiến lược, khi xác lập tầm nhìn “Đô thị di sản thiên niên kỷ”, nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần phát triển thuận tự nhiên, không đánh đổi cội nguồn lấy hiện đại. Đây cũng là một trong những địa phương hiếm hoi ở Việt Nam lấy “kinh tế di sản” làm trục phát triển, gắn bảo tồn với đổi mới sáng tạo, đúng như tinh thần mà PGS-TS. Đoàn Minh Huấn (Phó giám đốc thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình nhiệm kỳ 2020 - 2025) từng nhấn mạnh: “Làm cho bảo tồn mang chức năng phát triển và phát triển tăng năng lực bảo tồn, giải quyết căn cơ mâu thuẫn giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế - xã hội”.
Các quyết sách phát triển đô thị của Ninh Bình hiện nay được củng cố bằng những nghiên cứu học thuật có chiều sâu - tiêu biểu như “Đề án lượng giá giá trị kinh tế Quần thể danh thắng Tràng An”, góp phần lượng hóa và định vị rõ giá trị di sản như một nguồn lực phát triển bền vững.
Trong những năm gần đây, Ninh Bình từng bước chuyển hóa bản sắc thành hành động cụ thể. Quy hoạch đô thị được thực hiện trên nguyên tắc gắn kết chặt chẽ giữa thành phố Hoa Lư và không gian di sản Tràng An, vừa bảo vệ hệ sinh thái, vừa phát triển hạ tầng du lịch thân thiện môi trường. Cùng với đó, địa phương xây dựng thương hiệu điểm đến “Ninh Bình - tuyệt sắc miền cố đô”, một hình ảnh đô thị gắn liền với sông núi, hang động, chùa chiền và ký ức lịch sử triều Đinh - Tiền Lê.
Kinh tế sáng tạo được thúc đẩy thông qua các hoạt động dựa trên di sản như làng nghề thủ công, sản phẩm OCOP, nghệ thuật dân gian và lễ hội truyền thống. Đặc biệt, Ninh Bình chú trọng số hóa di sản bằng công nghệ 3D, thực tế ảo (VR), tái hiện không gian Hoa Lư xưa, đưa trải nghiệm di sản trở thành phần sống động của đời sống đương đại.
Những nỗ lực ấy cho thấy Ninh Bình không xem di sản như một bảo tàng tĩnh mà như một cơ thể sống, nơi giá trị truyền thống được chuyển hóa thành năng lượng phát triển mới. Hoa Lư - Tràng An vì thế đang trở thành mô hình tiêu biểu của đô thị di sản và đô thị cộng sinh, nơi quá khứ và hiện tại cùng tồn tại trong một vòng tuần hoàn, vừa tôn trọng quy luật tự nhiên, vừa nuôi dưỡng giá trị con người.
Giữ linh hồn thành phố
Rõ ràng đô thị bản sắc không chống lại hiện đại hóa, mà chống lại sự quên lãng.
Trong giai đoạn tái thiết và mở rộng, điều cốt yếu không nằm ở việc xây thêm mà là xây tiếp trên nền ký ức, để mỗi công trình, con phố, công viên mới đều mang trong mình hơi thở của quá khứ. Khi những tầng ký ức ấy được nối dài, thành phố không chỉ lớn lên về diện tích mà trưởng thành hơn trong tâm thức cộng đồng.
Người dân địa phương sẽ là một thành tố tích cực tham gia vào việc đồng kiến tạo và duy trì bản sắc đô thị. Trong ảnh: Lễ hội truyền thống tại điện Hòn Chén, Huế. Ảnh: CTV
Giữ linh hồn thành phố là giữ lại cảm giác thuộc về của con người, để mỗi bước chân trên đường không phải là đi qua một không gian vô danh, mà là bước trong câu chuyện của chính họ. Bản sắc đô thị, vì thế không thể được kiến tạo bằng khẩu hiệu hay quy hoạch hành chính, thay vào đó phải được nuôi dưỡng từ đời sống thường nhật, từ cách người dân sống, ứng xử, gìn giữ và kể lại ký ức nơi mình gắn bó.
Những không gian sáng tạo, tuyến phố nghệ thuật, mô hình bảo tồn sống (living heritage) hay các chương trình giáo dục di sản chính là minh chứng cho việc thành phố có thể tiếp tục viết câu chuyện bản sắc bằng ngôn ngữ của thời đại. Khi ký ức được chuyển hóa thành trải nghiệm, quá khứ trở thành chất liệu của hiện tại, và bản sắc trở thành nguồn năng lượng tinh thần tái tạo liên tục cho phát triển.
Khi được nhìn nhận như một ngôn ngữ phát triển, bản sắc sẽ giúp thành phố định vị mình giữa thế giới phẳng, đồng thời tạo nên bản lĩnh nội sinh - thứ khiến cư dân gắn bó và cảm thấy tự hào. Những thành phố biết kể lại câu chuyện của chính mình, như Huế, Hội An, Đà Lạt, Hà Nội hay Ninh Bình… sẽ không bao giờ bị lạc trong trào lưu toàn cầu, bởi chúng đã tìm được “từ khóa” cho sự tồn tại.
Phạm Minh Quân - Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội