Đề thi các môn Toán, Tiếng Anh tốt nghiệp THPT 2025 đang gây chú ý và tranh luận trong giới chuyên môn, giáo viên, học sinh và phụ huynh. Có ý kiến cho rằng đề quá khó, mang tính đánh đố; người khác lại ủng hộ cách ra đề mới. VietNamNet mở diễn đàn để ghi nhận các ý kiến đa chiều, góp phần cải tiến kỳ thi và nâng cao chất lượng dạy - học.
Bài viết dưới đây là ý kiến của Thạc sĩ Nguyễn Quang Thi, Trường THPT Bảo Lộc (Lâm Đồng) về việc cần điều chỉnh cách ra đề thi tốt nghiệp THPT môn Toán:
Đề thi tốt nghiệp môn Toán năm nay tương tự như đề minh họa thi tốt nghiệp THPT theo chương trình 2018 Bộ GD-ĐT đã công bố. Số câu hỏi dễ và khó được phân đều cho các chủ đề. Khi đọc và nghiên cứu mã đề 0109 tôi thấy kiến thức toán chủ yếu rơi vào chương trình lớp 11 và 12. Đề Toán được chia thành 3 phần. Dạng câu hỏi trong đề thi thiên về bài toán thực tế để phân loại được từng đối tượng học sinh.
Bộ thiết kế đề thi với độ khó tăng dần, câu hỏi nâng cao để phân loại chủ yếu ở phần II và ở phần III. Những câu này là một xâu chuỗi kiến thức, đòi hỏi học sinh biết lập luận, suy đoán và tính toán nhanh mới làm được.
Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu cụ thể từng phần của đề Toán:
Phần I. Gồm 12 là câu hỏi, mỗi câu có 4 lựa chọn, học sinh chỉ chọn một đáp án cho mỗi câu và được 0,25 điểm. Theo tôi phần này quen thuộc và học sinh được rèn luyện trong một thời gian dài nên rất nhuần nhuyễn.
Trong đó, 7 câu thuộc chương trình lớp 12, tập trung vào các chủ đề như đạo hàm, tích phân, hình học không gian, thống kê, vectơ và tọa độ. 5 câu còn lại thuộc lớp 11, gồm phương trình mũ – lôgarit, lượng giác, cấp số cộng và quan hệ vuông góc. Các câu hỏi nhìn chung ở mức cơ bản, phù hợp với năng lực phổ thông. Tuy nhiên, học sinh yếu có thể gặp khó ở một số câu lớp 11. Dù vậy, phần này không gây áp lực lớn và ít khả năng khiến học sinh rơi vào điểm liệt.
Thí sinh Hà Nội sau buổi thi toán tốt nghiệp THPT năm 2025.
Phần II gồm 4 câu hỏi, mỗi câu chia thành 4 ý nhỏ (a, b, c, d) theo dạng đúng – sai, điểm được lũy tiến và tối đa 1 điểm/câu. Dạng này khá quen thuộc vì thường xuyên được giáo viên sử dụng trong dạy học và kiểm tra. Ưu điểm là điểm số tăng dần theo số lượng ý đúng, tạo cơ hội ghi điểm ngay cả khi học sinh không làm trọn vẹn cả câu. Cụ thể, câu 1 thuộc chương phương pháp tọa độ trong không gian, chỉ cần nhớ kiến thức là có thể làm được; câu 2 về nguyên hàm - tích phân khá phức tạp, dễ gây nhầm lẫn; câu 3 thuộc phần đạo hàm và đồ thị, quen thuộc nên không khó; câu 4 về xác suất, tương đối đơn giản. Tuy nhiên, do lời dẫn dài, kiến thức trải rộng và độ khó của câu 2, nên không dễ để học sinh đạt điểm tối đa ở phần này.
Phần III gồm 6 câu hỏi tự luận ngắn, mỗi câu 0,5 điểm, đóng vai trò phân loại rõ rệt về năng lực học sinh. Đây là phần khó, đòi hỏi tư duy và kỹ năng cao, thường chỉ học sinh khá giỏi mới có khả năng làm tốt. Câu 1 yêu cầu lập hệ phương trình - phần đại số vốn không dễ; câu 2 thuộc tổ hợp, phức tạp về cách đọc và hiểu đề nên rất ít học sinh làm được; câu 3 là kiến thức lớp 11 về khoảng cách giữa hai đường thẳng, nếu học sinh biết cách vẽ hình sẽ tìm được hướng giải; câu 4 thuộc xác suất, khó và ít học sinh làm đúng; câu 5 về hàm số, quen thuộc nên có thể ghi điểm; câu 6 là câu khó về hình học không gian, liên quan thể tích khối chóp cụt đều - nếu không nhớ công thức, học sinh rất dễ bỏ qua.
Tóm lại, đề thi năm nay khó đối với học sinh vì có quá nhiều câu thực tế gây mất thời gian đọc và tóm tắt dữ kiện. Học sinh trung bình và yếu chủ yếu làm được phần I; học sinh khá có thể hoàn thành thêm một vài câu ở phần II; trong khi học sinh giỏi và xuất sắc mới đủ năng lực xử lý trọn vẹn các câu còn lại. Dự đoán phổ điểm tập trung nhiều nhất ở khoảng 5–6,5 điểm. Học sinh trung bình và yếu thường đạt từ 3 đến 4,5 điểm; học sinh khá đạt từ 4,5 đến 6,5 điểm; học sinh giỏi có thể đạt 6,5 đến 8,5 điểm; mức điểm cao hơn chủ yếu thuộc về học sinh xuất sắc.
Với những nhận xét trên tôi có mấy ý kiến đề xuất đề thi cho các năm tiếp theo như sau:
Thứ nhất, cần giảm số câu hỏi thuộc chương trình lớp 11 và loại bỏ hoàn toàn câu hỏi lớp 10. Đề Toán năm nay có tới 6 câu thuộc lớp 11 (5 câu ở phần I và 1 câu ở phần III), trong khi lớp 10 cũng xuất hiện 2 câu ở phần III. Mỗi câu thêm vào đồng nghĩa với việc học sinh phải học cả một chương kiến thức, gây áp lực và quá tải không cần thiết; trong khi đó, chương trình lớp 12 có rất nhiều nội dung phong phú để khai thác.
Thứ hai, cần điều chỉnh lại số lượng câu hỏi thực tế. Việc đưa quá nhiều bài toán gắn với tình huống thực tiễn khiến đề thi trở nên dài dòng, rối rắm. Lời dẫn phức tạp khiến học sinh mất thời gian tóm tắt dữ kiện, dễ bị choáng và mất bình tĩnh. Các câu hỏi thực tế nên tập trung ở phần III và giới hạn khoảng 4 câu, mỗi câu đại diện cho một chủ đề là hợp lý.
Thứ ba, phần I và phần II nên được thiết kế nhẹ nhàng, đóng vai trò nền tảng để học sinh có thể đạt mốc 7 điểm mà không bị quá tải tâm lý. Phần III với 6 câu có thể phân hóa theo hướng: 2 câu đầu ở mức vận dụng thấp, 4 câu sau ở mức độ nâng cao để phân loại rõ ràng, phục vụ mục tiêu xét tuyển đại học.
Nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm riêng của tác giả. Bạn đọc có ý kiến hoặc câu chuyện chia sẻ về vấn đề này xin gửi về email: Bangiaoduc@vietnamnet.vn. Bài viết được đăng tải trên VietNamNet sẽ nhận nhuận bút theo quy định của tòa soạn. Xin trân trọng cảm ơn!