Chiều 26-8, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú chủ trì Hội đồng thẩm định dự thảo Luật Chuyển đổi số.
Theo Tờ trình của Bộ KH&CN, Luật Công nghệ thông tin sau gần 20 năm thi hành đã bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập, không còn theo kịp tốc độ phát triển rất nhanh của công nghệ số và yêu cầu của quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Luật Công nghệ thông tin được xây dựng trong bối cảnh các công nghệ đột phá như Trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), Điện toán đám mây (Cloud Computing), Chuỗi khối (Blockchain)... cùng với các mô hình kinh doanh mới còn chưa xuất hiện hoặc chưa phổ biến, chưa bao quát được những yêu cầu mới phát sinh trong thực tiễn hiện nay.
Dự thảo Luật Chuyển đổi số được xây dựng nhằm số hóa toàn diện, tạo ra môi trường số, tương tác với môi trường thực để thay đổi cách tổ chức hoạt động, cung cấp dịch vụ và tạo ra giá trị mới.
Đồng thời, hoàn thiện hệ thống pháp luật để số hóa quốc gia, tạo nền tảng pháp lý liên ngành về chuyển đổi số trong ngành, lĩnh vực: số hóa, kết nối thế giới thực và thế giới số; hạ tầng cho chuyển đổi số; kinh tế số; xã hội số; các biện pháp bảo đảm chuyển đổi số.
Dự thảo Luật gồm 8 chương với 83 điều quy định về nhiều nội dung như hạ tầng cho chuyển đổi số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, quản lý nhà nước về chuyển đổi số....
Đáng chú ý, Dự thảo Luật quy định về 9 hành vi bị cấm, gồm: lợi dụng chuyển đổi số để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phát tán, tuyên truyền, lưu trữ, sử dụng trái phép dữ liệu số, công nghệ số; cản trở, can thiệp, phá hoại, làm sai lệch, chiếm đoạt, hủy hoại hạ tầng cho chuyển đổi số, các nền tảng số, cơ sở dữ liệu quốc gia, dữ liệu số; lợi dụng nền tảng số, công nghệ số để thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, trục lợi…
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú chủ trì Hội đồng thẩm định dự thảo Luật Chuyển đổi số. Ảnh: HOÀNG HUY
Góp ý tại Hội đồng thẩm định, đa số đại biểu đồng tình với sự cần thiết ban hành Luật Chuyển đổi số. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà lại các khái niệm được nêu ra tại dự thảo Luật, đặc biệt là khái niệm hạ tầng số; dự thảo Luật còn rải rác một số định nghĩa từ ngữ ở một số điều khoản trong khi Luật đã có Điều 3 quy định về các khái niệm, đề nghị ban soạn thảo cân nhắc, chuyển về chung trong 1 điều.
Các đại biểu cũng đề nghị bổ sung thêm khái niệm “dữ liệu lớn” (big data) và các tiêu chí xác định “dữ liệu lớn” tại dự thảo Luật; nghiên cứu bổ sung thêm một số khái niệm được sử dụng nhiều trong dự thảo Luật như: Hạ tầng truyền dẫn, hạ tầng công nghiệp công nghệ số, Chính phủ số… để bảo đảm thống nhất trong cách sử dụng.
Ngoài ra, các đại biểu đề nghị ban soạn thảo cân nhắc, sửa, bỏ một số điều khoản: bỏ Điều 41, sửa khoản 2 Điều 40, sửa điểm đ khoản 3 Điều 34…
Đại diện Bộ Quốc phòng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu bổ sung nội dung về bảo vệ bí mật nhà nước vào khoản 5 Điều 5 dự thảo Luật, cụ thể là hành vi vi phạm quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước, dữ liệu, dữ liệu cá nhân trong quá trình triển khai chuyển đổi số.
Đồng thời bổ sung vào khoản 1 và khoản 3 Điều 69 dự thảo luật nhằm thống nhất với các quy định của Luật Dữ liệu năm 2024 và Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2018…
Kết luận phiên họp hội đồng thẩm định, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú cho biết cần thiết ban hành Luật. Tuy nhiên, về phạm vi điều chỉnh, khoản 1 Điều 1 đang quy định rất rộng so với các chương còn lại, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xác định lại phạm vi cho phù hợp; nội dung nào không có giá trị gia tăng thì lược bỏ…
Theo Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú, những nội dung nào đã được quy định trong luật khác, trong Hiến pháp thì không nhất thiết phải đưa vào dự thảo Luật này. Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bảo đảm tính thống nhất trong dự thảo Luật và các luật có liên quan; rà lại ngôn ngữ cho chuẩn, bởi dự thảo Luật có nhiều nội dung dịch từ tiếng Anh sang; cần đảm bảo tính khả thi và tính giá trị gia tăng.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng Bộ Tư pháp cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung bảng so sánh đánh giá với quy định hiện hành; hoàn thiện Tờ trình theo mẫu, đặc biệt điểm nào cần giải trình về tính thống nhất, tính khả thi, cần nêu được những vấn lớn cho rõ ràng…
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh Dự án Luật đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu giải trình.
Những hành vi bị cấm tại dự thảo
1. Lợi dụng chuyển đổi số để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục; tạo lập, lan truyền nội dung sai sự thật, xuyên tạc giá trị văn hóa, hoặc xúc phạm danh dự, nhân phẩm; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Phát tán, tuyên truyền, lưu trữ, sử dụng trái phép dữ liệu số, công nghệ số.
3. Cản trở, can thiệp, phá hoại, làm sai lệch, chiếm đoạt, hủy hoại hạ tầng cho chuyển đổi số, các nền tảng số, cơ sở dữ liệu quốc gia, dữ liệu số của tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước.
4. Cần trở, gây khó khăn cho hoạt động chuyển đổi số hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp.
5. Vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, an toàn thông tin, an ninh mạng trong quá trình chuyển đổi số.
6. Lợi dụng nền tảng số, công nghệ số để thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, trục lợi hoặc sử dụng giao diện lừa đảo nhằm thao túng, ngăn cản người dùng đưa ra lựa chọn có hiểu biết và tự do.
7. Tạo ra hoặc chỉnh sửa nội dung (văn bản, hình ảnh, âm thanh, video) bằng hệ thống trí tuệ nhân tạo (theo pháp luật về công nghiệp công nghệ số) mà không cung cấp thông tin rõ ràng hoặc thể hiện thông tin về việc sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo, gây nhầm lẫn hoặc có mục đích lừa đảo.
8. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của nền tảng số để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, theo pháp luật về cạnh tranh như: định giá không công bằng, phân biệt đối xử, tự ưu tiên sản phẩm, dịch vụ của nền tảng nhằm cản trở sự gia nhập thị trường, loại bỏ đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp khác.
9. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị đưa vào hệ thống trí tuệ nhân tạo các thông tin thuộc danh mục bí mật Nhà nước, dữ liệu cá nhân chưa được sự đồng ý của chủ thể, hoặc thông tin nội bộ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo cho các hành vi vi phạm pháp luật như lừa đảo, tạo thông tin sai lệch, phá hoại hệ thống, hoặc xâm nhập trái phép vào hệ thống thông tin; khai thác hệ thống trí tuệ nhân tạo tại nơi công cộng theo cách có thể rò rỉ thông tin; lưu trữ mật khẩu công vụ trên thiết bị hoặc hệ thống trí tuệ nhân tạo.
BÙI TRANG