Đề xuất 'cởi trói' 5 vấn đề để đại học tự chủ toàn diện

Đề xuất 'cởi trói' 5 vấn đề để đại học tự chủ toàn diện
7 giờ trướcBài gốc
Sáng 24-10, tại ĐH Quốc gia TP.HCM đã diễn ra Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo”.
Hội thảo do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Đảng ủy Bộ GD&ĐT và ĐH Quốc gia TP.HCM phối hợp tổ chức nhằm quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 71/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Tại đây, ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ĐH – coi đây là nhiệm vụ then chốt để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường.
Nghị quyết 71 xác định GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân, là trụ cột then chốt để nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và tạo động lực trung tâm cho phát triển nhanh, bền vững đất nước. Trong đó, giáo dục ĐH giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo nhân lực trình độ cao, phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, phát biểu tại hội thảo
5 bất cập khiến đại học chưa phát huy tự chủ
PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình - Viện trưởng Viện Phát triển chính sách, ĐH Quốc gia TP.HCM, đã chỉ ra nhiều bất cập trong cơ chế phân cấp, phân quyền hiện nay, đồng thời kiến nghị một loạt giải pháp để ĐH Quốc gia TP.HCM thực sự trở thành trung tâm đầu tàu về đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Theo PGS Trần Tình, hiện còn nhiều ràng buộc khiến các trường đại học khó phát huy tính tự chủ. Cụ thể, quy định về cơ cấu tổ chức, số lượng phó hiệu trưởng, thành lập phòng ban còn cứng nhắc, chưa phù hợp với quy mô và đặc thù của từng trường. Thực tế, trường ĐH có 40.000 sinh viên hay 4.000 sinh viên cũng chỉ tối đa 3 phó hiệu trưởng; thành lập phòng, ban khi có ít nhất 2 mảng công tác và tối thiểu 7 nhân sự.
Việc xét và công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư vẫn tập trung ở cấp quốc gia qua đến 4 hội đồng, gây chậm trễ và chưa phản ánh đúng năng lực của cơ sở đào tạo. Nhiệm kỳ bổ nhiệm chức danh GS, PGS là 5 năm. Kết thúc nhiệm kỳ, tổ chức rà soát, đánh giá để bổ nhiệm lại. Tuy nhiên, ngay cả khi không được bổ nhiệm lại, người đã đạt tiêu chuẩn vẫn giữ danh hiệu GS, PGS và có thể được bổ nhiệm ở cơ sở khác.
Ngoài ra, các quy định về phê duyệt chương trình đào tạo đặc thù (sư phạm, y khoa, luật, tiến sĩ) vẫn giao hoàn toàn cho Bộ GD&ĐT, hạn chế quyền tự chủ học thuật của các ĐH lớn.
Vướng mắc nữa là thiếu hành lang pháp lý cho cơ chế đặt hàng nghiên cứu chiến lược giữa TP.HCM và ĐH Quốc gia TP.HCM, cũng như chưa có cơ chế chung trong việc sử dụng đội ngũ chuyên gia mà TP thu hút. Bên cạnh đó, chưa có khung pháp lý cho mô hình khu đô thị đại học thông minh – đại học công nghệ cao, dù đây là định hướng quan trọng trong Nghị quyết 71/2025.
PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình - Viện trưởng Viện Phát triển chính sách, ĐH Quốc gia TP.HCM, đã chỉ ra nhiều bất cập cần tháo gỡ. Ảnh: T.THÔNG
Từ thực tiễn trên, ông đề xuất 5 nhóm giải pháp trọng tâm. Thứ nhất là thí điểm cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy, cho phép các ĐH trọng điểm tự quyết số lượng phó hiệu trưởng và cơ cấu phòng ban theo nhu cầu.
Thứ hai, cần cho phép tự xét, công nhận chức danh GS, PGS tại các ĐH trọng điểm trong 3 năm thí điểm, với kết quả có giá trị pháp lý toàn quốc.
Thứ ba, ủy quyền phê duyệt chương trình đào tạo đặc thù và tiến sĩ cho các ĐH trọng điểm; cho phép chuyên gia quốc tế có uy tín được hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh.
Thứ tư, xây dựng cơ chế đặt hàng nghiên cứu chiến lược giữa TP.HCM và ĐH Quốc gia TP.HCM, thống nhất sử dụng nguồn lực tài chính và chuyên gia, đồng thời TP đặt hàng đào tạo sau ĐH các ngành chiến lược. TP.HCM cần hỗ trợ kinh phí, cấp học bổng hoặc đặt hàng đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học các ngành học chiến lược gắn với chiến lược phát triển mới của TP.
Cùng với đó, cần tiếp tục triển khai Nghị quyết số 27/2023/NQ-HĐND về mức thu nhập chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt theo hướng dùng chung với các cơ sở đại học uy tín, có môi trường làm việc phù hợp với các chuyên gia để thu hút và giữ chân được các chuyên gia giỏi.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế phát triển khu đô thị ĐH thông minh, cho phép ĐH Quốc gia TP.HCM cùng TP.HCM đồng chủ thể quy hoạch, tích hợp hạ tầng số và thành lập Quỹ phát triển theo mô hình đối tác công – tư.
PGS Trần Tình nhấn mạnh, tăng cường phân cấp, phân quyền cho ĐH Quốc gia TP.HCM là bước đi chiến lược để chuyển sang mô hình quản trị đại học hiện đại, gắn tự chủ với trách nhiệm giải trình. Khi được trao quyền tương xứng, ĐH Quốc gia TP.HCM có thể trở thành hình mẫu đại học tự chủ, hướng tới mục tiêu lọt vào nhóm 100 đại học hàng đầu châu Á vào năm 2030.
Hơn 60% nhân tài công nghệ Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài
Trong báo cáo về vấn đề tài chính giáo dục ĐH, bà Trần Ánh Nguyệt, chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam, nhấn mạnh giáo dục ĐH là “hạt nhân” của hệ sinh thái khoa học – công nghệ – đổi mới sáng tạo, giữ vai trò then chốt trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Theo bà Nguyệt, các ngành sản xuất và dịch vụ công nghệ cao hiện đòi hỏi từ 28% đến 90% nhân lực có trình độ ĐH trở lên, trong khi Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng nhân tài trong 11 lĩnh vực công nghệ chiến lược.
Thực tế, hơn 60% nhân tài Việt Nam được đào tạo trong các ngành này đang làm việc ở nước ngoài, cho thấy thách thức lớn về cơ chế đãi ngộ và môi trường làm việc.
Thống kê đáng chú ý của Ngân hàng thế giới về nhân lực công nghệ Việt Nam.
Bà đề xuất Việt Nam cần xây dựng chính sách tài chính đột phá để thu hút và giữ chân giảng viên, nhà khoa học xuất sắc. Cụ thể, nên triển khai “Quỹ giảng viên và nghiên cứu viên xuất sắc” nhằm hỗ trợ trao đổi học thuật quốc tế, tài trợ nghiên cứu sau tiến sĩ, mời giáo sư và chuyên gia từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy.
Song song đó, cần áp dụng cơ chế lương, phụ cấp và đầu tư cơ sở vật chất tiệm cận chuẩn quốc tế để tạo điều kiện cho nghiên cứu, công bố quốc tế và đổi mới sáng tạo; tài trợ vị trí “Giáo sư thực hành”, mời chuyên gia từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy.
Về cơ sở hạ tầng, chuyên gia Ngân hàng thế giới cho rằng Việt Nam hiện thiếu nghiêm trọng các phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, nhất là trong lĩnh vực bán dẫn, AI và công nghệ sinh học. Bà khuyến nghị đầu tư 2,75 tỷ USD giai đoạn 2025–2030 cho hạ tầng nghiên cứu 3 ngành công nghệ chiến lược gồm bán dẫn, trí tuệ nhân tạo – robot, công nghệ sinh học, thông qua mô hình hợp tác công – tư (PPP).
Bà cũng nhấn mạnh vai trò của các đại học nghiên cứu trong cụm đổi mới sáng tạo, đề xuất phát triển các trung tâm nghiên cứu, xưởng thử nghiệm và cơ sở sản xuất thử đặt tại đại học, tương tự mô hình thành công tại Singapore và Hàn Quốc. Điều này không chỉ giúp gắn kết đào tạo với doanh nghiệp, mà còn tạo “cú hích” thu hút đầu tư và nhân tài trở về phục vụ đất nước.
Theo bà Trần Ánh Nguyệt, muốn hiện thực hóa Nghị quyết 71/2025, Việt Nam cần coi đầu tư tài chính cho giáo dục ĐH và nghiên cứu là đầu tư phát triển, thay vì chi thường xuyên – một điều kiện tiên quyết để nâng tầm các đại học thành trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia.
Hội thảo thu hút hơn 40 tham luận với bốn chủ đề chính, với sự tham gia của các diễn giả từ cơ quan trung ương, các trường ĐH hàng đầu, tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, ĐH Quản lý Singapore và đại diện doanh nghiệp lớn. Kết quả hội thảo sẽ là những luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc hoàn thiện chính sách và định hướng phát triển chiến lược của các cơ sở giáo dục ĐH, góp phần tạo chuyển biến thực chất cho nền giáo dục đại học Việt Nam.
PHẠM ANH
Nguồn PLO : https://plo.vn/de-xuat-coi-troi-5-van-de-de-dai-hoc-tu-chu-toan-dien-post877266.html