Sáng 1/12, tại phiên thảo luận về dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và Khoáng sản, các đại biểu Quốc hội nhận định, Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức lớn trong việc khai thác và sử dụng đất hiếm - loại tài nguyên chiến lược quan trọng, nền tảng cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, xe điện và quốc phòng. Do vậy các đại biểu, đề xuất hoàn thiện khung pháp lý nhằm khai thác hiệu quả, bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển bền vững.
Hoàn thiện khung pháp lý và quản lý chặt chẽ
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (TP. HCM) nhấn mạnh: “Đất hiếm là tài nguyên chiến lược, cần được quản lý chặt chẽ. Nếu không có ràng buộc đủ mạnh, đất hiếm có nguy cơ tiếp tục bị xuất khẩu thô, khiến Việt Nam lệ thuộc vào công nghệ và giá trị gia tăng từ các khâu chế biến phía sau”.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (TP. HCM) phát biểu.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đồng tình với việc dự thảo luật quy định đất hiếm thuộc nhóm khoáng sản số 1 và bổ sung Chương 7a, nhưng cho rằng cần làm rõ cơ chế kiểm soát xuất khẩu, kèm theo tỷ lệ chế biến sâu tối thiểu trong nước. Theo đại biểu, nếu thiếu những ràng buộc này, đất hiếm có thể bị khai thác và xuất khẩu thô, gây thiệt hại cho nền kinh tế, đồng thời bỏ lỡ cơ hội phát triển ngành công nghiệp chế biến trong nước.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng cũng cảnh báo các rủi ro môi trường nghiêm trọng gắn với khai thác và chế biến đất hiếm, vốn có thể phát sinh chất thải phóng xạ và kim loại nặng độc hại. Vì vậy, đại biểu đề nghị luật hóa các cơ chế an toàn gồm: đánh giá rủi ro môi trường bởi đơn vị độc lập; ký quỹ phục hồi môi trường ở mức cao hơn mỏ khoáng sản thông thường; công bố định kỳ dữ liệu môi trường từ các cơ sở chế biến. Đại biểu Tâm Hùng nhấn mạnh: “Đây là những điều kiện tối thiểu để bảo đảm phát triển bền vững và tránh lặp lại mô hình ô nhiễm mà nhiều nước từng phải trả giá”.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng nhấn mạnh sự cần thiết xác lập tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia thăm dò, khai thác và chế biến đất hiếm dựa trên năng lực công nghệ, quản trị môi trường và yêu cầu an ninh kinh tế. Đại biểu cảnh báo: nếu thiếu quy trình thẩm định chặt chẽ, lĩnh vực nhạy cảm này có thể đối diện nguy cơ bị thâu tóm tài nguyên, rò rỉ công nghệ nền và ảnh hưởng đến chủ quyền tài nguyên quốc gia trong dài hạn.
Đồng quan điểm này, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) đánh giá cao việc bổ sung một chương riêng về đất hiếm, coi đây là bước hoàn thiện pháp lý kịp thời trong bối cảnh thế giới cạnh tranh mạnh mẽ về vật liệu chiến lược. Đại biểu khẳng định: “Đất hiếm là nền tảng của nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn, từ bán dẫn, năng lượng tái tạo, xe điện đến quốc phòng, vì vậy được xác định là tài nguyên đặc biệt quan trọng, cần quản lý thống nhất ở cấp quốc gia”.
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) phát biểu.
Tuy nhiên, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cảnh báo rằng, đất hiếm là nhóm tài nguyên có hệ số rủi ro môi trường rất lớn. Toàn bộ quá trình tuyển, tách đều phát sinh chất thải phóng xạ tự nhiên và hỗn hợp kim loại nặng khó xử lý. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia từng phát triển đất hiếm ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã phải trả giá bằng những vùng ô nhiễm phóng xạ tồn lưu, chi phí phục hồi môi trường vượt xa giá trị thu được từ khai thác. “Việt Nam tuyệt đối không thể đi vào vết xe đổ đó”, đại biểu nhấn mạnh.
Để bảo đảm an toàn môi trường, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh đề nghị luật phải thiết lập các ngưỡng kỹ thuật bắt buộc, bao gồm: công nghệ tuyển tách khép kín; mô hình hóa phát tán phóng xạ; quan trắc liên tục; xử lý bùn thải theo chuẩn quốc tế; phục hồi môi trường ngay sau từng giai đoạn khai thác. Chỉ những doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, nền tảng tài chính vững và hệ thống quản trị môi trường đạt chuẩn quốc tế mới được tham gia chuỗi khai thác - chế biến đất hiếm. Bên cạnh đó, bà đề nghị tăng cường giám sát độc lập của Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân quốc gia trong toàn bộ vòng đời khai thác - chế biến, nhằm đảm bảo không xảy ra sai lệch trong thẩm định công nghệ, kiểm tra hiện trường hay xử lý chất thải.
Một vấn đề quan trọng khác mà đại biểu Tú Anh lưu ý là thời gian ưu tiên cấp phép sau thăm dò. Với đặc thù kỹ thuật phức tạp, chu kỳ chuẩn bị dự án đất hiếm thường kéo dài 3-5 năm, trong khi thời hạn ưu tiên theo dự thảo hiện nay quá ngắn. Nếu quy định cứng, nhà đầu tư có thể buộc phải lập dự án vội vàng để giữ quyền, dẫn tới nguy cơ khai thác thô, manh mún, không hình thành được chế biến sâu. Đại biểu đề nghị áp dụng cơ chế linh hoạt hơn đối với đất hiếm, nhằm thu hút nhà đầu tư có trình độ công nghệ thực sự.
Phát triển bền vững và đảm bảo an ninh chiến lược
Đại biểu Điều Huỳnh Sang (Đồng Nai) khẳng định: “Đất hiếm là tài nguyên chiến lược đặc biệt, là một phần không thể thiếu của cuộc sống hiện đại. Hiện có 17 kim loại của nhóm đất hiếm được sử dụng trong các công nghệ then chốt”.
Đại biểu Điều Huỳnh Sang (Đồng Nai) phát biểu.
Bà nhấn mạnh, trong bối cảnh chuyển đổi xanh và phát triển trí tuệ nhân tạo (AI), nhu cầu toàn cầu về kim loại đất hiếm tăng mạnh, đặc biệt trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo và quốc phòng. Đại biểu nêu rõ: “Đất hiếm không chỉ là hàng hóa đặc biệt mà còn tác động trực tiếp đến quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Do đó, phải có cơ chế quản lý chặt chẽ đối với tất cả các hoạt động liên quan”.
Đại biểu Điều Huỳnh Sang cơ bản thống nhất với dự thảo luật nhằm tạo hành lang pháp lý quan trọng và thúc đẩy phát triển ngành khai thác, chế biến và sử dụng đất hiếm đồng bộ, hiệu quả và bền vững, đồng thời đề nghị cân nhắc thiết kế chương quy định khoáng sản chiến lược để bảo đảm tính ổn định lâu dài và phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Nội dung này cũng được đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) đề cập. Theo đại biểu, trong bối cảnh thế giới đang khan hiếm nguồn tài nguyên này, Việt Nam sở hữu tiềm năng đáng kể, nhưng phân bố rải rác, nhiều mỏ nằm gần khu dân cư và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, việc thăm dò, xác định trữ lượng và bảo vệ tài nguyên đất hiếm được đánh giá là cực kỳ quan trọng.
Toàn cảnh phiên họp.
Đại biểu Phạm Văn Hòa cảnh báo, nếu quản lý không chặt chẽ, nguy cơ khai thác trái phép và buôn bán lậu đất hiếm là rất lớn. Đại biểu nhấn mạnh: “Cần có cơ chế quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt, đồng thời ban hành các chính sách phù hợp để bảo đảm nguồn tài nguyên chiến lược này không bị thất thoát”. Đại biểu cũng đề nghị, các cơ quan soạn thảo luật và cơ quan quản lý môi trường cần xem xét, hoàn thiện quy định theo hướng chặt chẽ, bảo đảm an toàn môi trường, bảo vệ tài nguyên và quyền lợi hợp pháp của người dân.
Xây dựng chiến lược quốc gia về đất hiếm
Trước các ý kiến nêu trên, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng - đại diện cho cơ quan soạn thảo dự luật đã có phần giải trình chi tiết. Ông khẳng định, Việt Nam sở hữu trữ lượng đất hiếm lớn, xếp thứ hai, thứ ba trên thế giới, phân bố ở 21 tỉnh, thành phố. Bộ trưởng cho biết, hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã khoanh định cơ bản đầy đủ các khu vực mỏ và tổ chức quản lý chặt chẽ.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho hay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chủ trì phối hợp với các bộ, ngành xây dựng Chiến lược Quốc gia về đất hiếm, dự kiến ban hành đầu năm 2026. Theo ông, việc khoanh định mỏ chỉ là bước đầu; bước tiếp theo là đưa vào khai thác chế biến sâu để mang lại lợi ích tối đa cho đất nước, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh: “Dự thảo luật khi tách đất hiếm ra thành một chương riêng, đồng thời có các chế tài, sẽ là cơ sở để Chính phủ ban hành các văn bản dưới luật. Chúng tôi tin rằng đất hiếm sẽ thực sự trở thành tài nguyên quan trọng để khai thác và phát triển đất nước trong thời gian tới, hình thành chuỗi giá trị khép kín và hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô”.
Theo Bộ trưởng Trần Đức Thắng, giải pháp này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho quản lý và khai thác, mà còn đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và quyền lợi của người dân, đồng thời góp phần an ninh quốc phòng và chủ quyền tài nguyên quốc gia.
Khiếu Hương