Bộ Tài chính vừa gửi Bộ Tư pháp hồ sơ dự án Luật Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) (sửa đổi). Theo đó, tại dự án này, Bộ Tài chính vẫn giữ nguyên một số đề xuất từng được nhiều chuyên gia phản biện, góp ý như giữ nguyên bậc thuế cao nhất 35% của biểu thuế lũy tiến; Giữ quy định về thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn được xác định bằng thu nhập tính thuế nhân với thuế suất 20% theo từng lần chuyển nhượng.
Bộ Tài chính quy định, thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Đồng thời bổ sung quy định “Trường hợp không xác định được giá mua và các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng vốn thì thuế TNCN được xác định bằng giá bán nhân với thuế suất 2% (áp dụng thống nhất cho cả cá nhân cư trú và không cư trú)”.
Đáng chú ý, theo hồ sơ dự án này, Bộ Tài chính đã có sự thay đổi về quy định về phương pháp tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh của cá nhân cư trú.
Cụ thể, theo Bộ Tài chính, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bồ sung một số điều tại các Luật thuế (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2015) quy định “Đối với cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thì không phải nộp thuế TNCN; Đối với cá nhân kinh doanh có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm nộp thuế TNCN theo tỷ lệ ấn định trên doanh thu theo từng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh”.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15, trong đó đã điều chinh tăng ngưỡng doanh thu không chịu thuế giá trị gia tăng của cá nhân kinh doanh lên mức 200 triệu đồng/năm (thay cho mức 100 triệu đồng) và áp dụng từ 01/01/2026. Đồng thời, tại Điều 17 Luật số 48/2024/QH15 cũng đã sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 3 của Luật Thuế TNCN điều chỉnh ngưỡng doanh thu không chịu thuế TNCN của cá nhân kinh doanh bằng với mức của thuế giá trị gia tăng.
Nội dung này hiện quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thuế TNCN chung cho cả cá nhân cự trú và không cư trú. Tuy nhiên, việc quy định nguỡng doanh thu theo năm để xác định cá nhân không phải nộp thuế TNCN chỉ áp dụng đối với cá nhân cư trú, còn đối với cá nhân không cư trú, việc tính thuế theo từng lần phát sinh thu nhập đối với tất cả các loại thu nhập và vẫn duy trì phương pháp tính thuế theo tỷ lệ trên doanh thu như hiện hành. Do vậy, dự thảo Luật kết cấu lại và chuyển nội dung này xuống Điều 6 dự thảo Luật.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Thuế TNCN hiện hành thì cá nhân kinh doanh nộp thuế TNCN theo tỷ lệ trên doanh thu đối với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh. Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Trường hợp cá nhân kinh doanh không xác định được doanh thu thì cơ quan thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Đồng thời, để thực hiện chủ trương bỏ hình thức thuế khoán theo Nghị quyết số 68- NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về việc không áp dụng phương pháp khoán thuế từ ngày 01/01/2026, khuyến khích cá nhân kinh doanh thành lập, chuyển đổi lên doanh nghiệp, dự thảo Luật bổ sung phương thức tính thuế trên thu nhập đối với thu nhập từ kinh doanh của cá nhân cư trú có doanh thu năm trên mức quy định của Chính phủ được xác định bằng thu nhập tính thuế nhân thuế suất 17%.
Trong đó, thu nhập tính thuế được xác định bằng doanh thu của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong kỳ tính thuế. Quy định này cũng tương đương với quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đang được quy định tại Luật Thuế TNDN số 67/2025/QH15 (tại khoản 3 Điều 10): Áp dụng thuế suất 17% đối với doanh nghiệp có tổng doanh thu năm từ trên 03 tỷ đồng đến không quá 50 tỷ đồng.
Đối với cá nhân kinh doanh có doanh thu năm dưới mức quy định của Chính phủ thì vẫn giữ phương thức tính thuế theo tỷ lệ trên doanh thu như Luật Thuế TNCN hiện hành.
Nhật Thu