Mức giảm trừ 11 triệu đồng: Lạc nhịp với giá cả
Theo quy định hiện hành, mức giảm trừ gia cảnh là 11 triệu đồng/tháng cho bản thân người nộp thuế và 4,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc. Con số này được điều chỉnh gần nhất vào năm 2020, khi lương cơ sở là 1,49 triệu đồng/tháng. Hiện nay, lương cơ sở đã tăng lên 2,34 triệu đồng – tức tăng hơn 57%, nhưng mức giảm trừ vẫn giữ nguyên.
Chị Mai, một nhân viên ngân hàng tại Hà Nội, cho biết: “Tiền thuê căn hộ 70m² ở phường Cầu Giấy đã 9 triệu đồng/tháng, cộng thêm điện nước, ăn uống, gửi xe, xăng xe… thì mức giảm trừ hiện tại chẳng thấm vào đâu. Nếu tính cả học phí cho con, mỗi tháng tôi phải chi ít nhất 25 triệu đồng, trong khi thu nhập chịu thuế lại bị tính từ ngưỡng thấp hơn nhiều”.
Thuế thu nhập cá nhân là công cụ phân phối lại thu nhập và đảm bảo ngân sách, nhưng nếu chính sách không bắt kịp đời sống, nó có thể trở thành gánh nặng, triệt tiêu động lực làm việc và sáng tạo.
Không chỉ chi phí sinh hoạt, giá hàng hóa và dịch vụ thiết yếu tăng mạnh trong giai đoạn 2020–2024. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4 năm qua đã tăng gần 18%, và nếu tính thêm các đợt tăng giá xăng dầu, điện, học phí, y tế… thì mức tăng thực tế đối với nhiều hộ gia đình đã vượt 20%.
Vậy nhưng, quy định tại Luật Thuế TNCN chỉ cho phép điều chỉnh khi CPI tăng 20% kể từ lần điều chỉnh gần nhất. Cách tiếp cận này bị đánh giá là “quá chậm” và không phản ánh kịp biến động giá cả hàng năm.
Một bất cập khác là biểu thuế lũy tiến từng phần với 7 bậc, áp dụng từ năm 2007, vẫn giữ nguyên đến nay. Khoảng cách giữa các bậc thu nhập khá hẹp chỉ vài triệu đồng khiến người lao động dễ “nhảy bậc” và phải chịu thuế suất cao hơn chỉ vì thu nhập tăng nhẹ.
Ông Nguyễn Văn Được – Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn thuế Trọng Tín – nhận định: “Biểu thuế hiện tại chưa hợp lý khi độ nhảy bậc 1 và bậc nhanh dẫn đến áp lực thuế lớn cho người nộp thuế có thu nhập trung bình và khá, ngược lại cần thu hẹp và cần tăng mức độ nhảy bậc ở các bậc thuế cao để huy động hợp lý vào ngân sách. Bên cạnh đó mức thuế cao nhất 35% sẽ không khuyến khích tăng thu nhập hợp pháp và có chiều hướng gian lận, trốn thuế”.
Ở nhiều quốc gia, khoảng cách giữa các bậc thuế rộng hơn, và mức thuế suất cao nhất thường chỉ áp dụng cho nhóm thu nhập rất cao. Chẳng hạn, Singapore áp dụng 22% cho nhóm thu nhập trên 320.000 SGD/năm (hơn 6 tỷ đồng), trong khi Việt Nam áp dụng 35% cho nhóm trên 960 triệu đồng/năm (80 triệu/tháng) – mức mà ở các đô thị lớn, không ít người làm quản lý trung cấp đã đạt tới.
Bộ Tài chính đề xuất rút xuống 5 bậc, nhưng vẫn giữ 35%
Trong dự thảo sửa đổi Luật Thuế TNCN, mới đây Bộ Tài chính đã đưa vào nhiều điểm mới như bổ sung khoản chi được trừ là chi phí y tế và giáo dục – đào tạo cho bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc. Đây là lần đầu tiên những khoản này được xem xét trong luật. Ông Nguyễn Văn Được đánh giá đây là một bước tiến nhân văn: “Những khoản chi này thực tế là gánh nặng lớn đối với các gia đình, nhất là khi chi phí khám chữa bệnh, bảo hiểm, học phí tăng nhanh. Việc được trừ sẽ giảm áp lực thuế, tăng thu nhập khả dụng, kích thích tiêu dùng và đầu tư. Ngắn hạn ngân sách có thể giảm thu, nhưng về lâu dài sẽ bù đắp qua tăng trưởng kinh tế và nguồn thu khác”.
Ông Nguyễn Văn Được – Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn thuế Trọng Tín.
Tuy vậy, ông cũng lưu ý cần xác định rõ phạm vi và mức trần để tránh lợi dụng. Ví dụ, với giáo dục, chỉ nên áp dụng cho các khoản học phí chính thức của các cơ sở đào tạo hợp pháp; với y tế, cần giới hạn ở các chi phí khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, bảo hiểm sức khỏe, loại trừ các dịch vụ xa xỉ.
Ngoài ra, theo ông Được, nên cân nhắc bổ sung chi phí thuê nhà, vốn chiếm tỷ trọng rất lớn trong ngân sách của người lao động ở đô thị và khuyến nghị nên áp dụng chi phí y tế, giáo dục cho cả “người phụ thuộc” thuộc trách nhiệm nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật để bao quát các trường hợp người thân là trẻ em cơ nhỡ, người cao tuổi hoặc thất nghiệp dài hạn cần được hỗ trợ.
Một thay đổi quan trọng khác trong dự thảo là giao Chính phủ quyền điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo biến động kinh tế – xã hội, thay vì ấn định con số cứng trong luật. Điều này giúp chính sách linh hoạt hơn, giảm độ trễ so với thực tế.
Ông Được đề xuất việc điều chỉnh nên dựa trên CPI kết hợp một số chỉ tiêu khác như thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng lương cơ sở, chỉ số chi phí sinh hoạt (COLI) tại các vùng. Mặc dù có ý kiến đề xuất áp dụng mức giảm trừ khác nhau cho đô thị và nông thôn, ông cho rằng không nên phân vùng, mà nên lấy chuẩn của đô thị để bảo đảm người lao động ở vùng khó khăn cũng được hưởng lợi, qua đó góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển.
Tuy nhiên, một trong những điểm đáng chú ý nhất là Bộ Tài chính trình phương án rút gọn biểu thuế từ 7 bậc xuống còn 5 bậc, nhưng vẫn giữ nguyên mức thuế suất cao nhất 35%.
Theo đó, bậc 1 áp dụng mức 5% cho thu nhập tính thuế đến 10 triệu đồng/tháng; bậc cao nhất 35% cho thu nhập trên 100 triệu đồng/tháng. Như vậy, người thu nhập trung bình – thấp được giảm nghĩa vụ thuế, trong khi người thu nhập cao vẫn chịu mức điều tiết lớn.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng mức thuế tối đa 20–25% sẽ phù hợp hơn trong bối cảnh thu nhập bình quân của Việt Nam còn thấp, nền kinh tế cần tích lũy và khuyến khích đầu tư. Nhưng theo Bộ Tài chính hiện nay các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines vẫn duy trì mức 35%, trong khi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ áp dụng tới 45%. Cơ quan này khẳng định với việc mở rộng khoản giảm trừ và điều chỉnh biểu thuế, gánh nặng thực tế với người lao động trung bình sẽ giảm, đồng thời ngân sách chỉ hụt thu khoảng 8.740 tỷ đồng.
Kỳ vọng vào một hệ thống thuế công bằng hơn
Trong bối cảnh ngân sách Nhà nước vẫn cần nguồn lực lớn cho đầu tư hạ tầng, an sinh xã hội và trả nợ công, bài toán đặt ra là cân bằng giữa việc giảm thuế cho người dân và duy trì nguồn thu.
Ông Được nhấn mạnh: “Luật cần mở rộng cơ sở thu, nhưng phải động viên hợp lý, khoan sức dân. Một giải pháp là giảm thuế suất bậc cao nhất từ 35% xuống 30% để tránh chảy máu chất xám và khuyến khích làm giàu hợp pháp; đồng thời tăng mức giảm trừ gia cảnh, mở rộng khoản miễn trừ, qua đó nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài”.
Nhiều chuyên gia khác cũng cho rằng, một hệ thống thuế TNCN hợp lý không chỉ là công cụ thu ngân sách, mà còn là đòn bẩy điều tiết kinh tế, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, khuyến khích sáng tạo và cống hiến.
Nếu dự thảo lần này được thông qua với những cải tiến như mở rộng khoản miễn trừ, điều chỉnh linh hoạt mức giảm trừ gia cảnh, cải tiến biểu thuế, dù còn giữ mức thuế suất cao nhất 35%, thì đây vẫn sẽ là bước tiến quan trọng hướng tới một chính sách thuế công bằng, minh bạch và bám sát đời sống.
Như ông Nguyễn Văn Được khẳng định: “Người dân sẵn sàng nộp thuế nếu thấy chính sách hợp lý, công bằng và minh bạch. Khi đó, thuế không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là sự đồng thuận xã hội”.
Đình Khương