Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng đã vượt mức 3% (chưa tính nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu và nợ đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) nhưng chưa xử lý). Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cũng ghi nhận hiệu quả thu hồi nợ giảm đáng kể sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực.
Nợ xấu ngân hàng có xu hướng tăng.
Quốc hội đã bổ sung Điều 198a vào Luật Các tổ chức tín dụng, quy định quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức xử lý nợ. Để quy định này có thể triển khai thống nhất trên thực tế, Chính phủ được giao ban hành nghị định quy định chi tiết, tránh áp dụng tùy tiện và gây xung đột trong thực tiễn.
Xây dựng dự thảo nghị định này, Ngân hàng Nhà nước nêu rõ, tài sản bảo đảm chỉ được thu giữ nếu không phải là nhà ở duy nhất và không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm.
“Nhà ở duy nhất là công trình xây dựng duy nhất thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, nơi ở và sinh sống ổn định, lâu dài hoặc thường xuyên sinh sống. Công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất là phương tiện lao động mang lại thu nhập chính, được xác định dựa trên mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định”, dự thảo nêu.
Ngân hàng Nhà nước phân tích, việc không thu giữ tài sản bảo đảm là công cụ lao động chủ yếu hoặc nhà ở duy nhất của người dân là biện pháp bảo vệ, giúp bên bảo đảm duy trì điều kiện sinh sống tối thiểu, có khả năng lao động và nuôi sống bản thân, gia đình.
Quy định này được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế tại Đức, Canada, Pháp và Liên bang Nga, nơi cũng có các giới hạn nhằm bảo vệ người dân khi tài sản bị kê biên hoặc thu giữ.
Dự thảo nghị định quy định rõ: Người vay - tức bên bảo đảm - phải tự xác nhận và cam kết tài sản thế chấp của mình có thuộc diện không bị thu giữ (nhà ở duy nhất, công cụ lao động thiết yếu) hay không. Việc này phải thực hiện ngay khi ký hợp đồng, kèm theo giấy tờ chứng minh. Nếu không có giấy tờ chứng minh, tài sản sẽ mặc nhiên được coi là không thuộc diện loại trừ.
Ngân hàng Nhà nước giải thích, tổ chức tín dụng chỉ căn cứ vào lời cam kết và hồ sơ mà người vay cung cấp. Người vay phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, hợp pháp của những giấy tờ này.
Lý do là vì người vay chính là người sở hữu và hiểu rõ nhất về hiện trạng, pháp lý cũng như mục đích sử dụng tài sản. Ngược lại, ngân hàng không phải cơ quan quản lý Nhà nước, cũng không có thẩm quyền hay điều kiện để đi xác minh xem một căn nhà có thực sự là “duy nhất” hay một phương tiện lao động có phải là “nguồn thu nhập chính” của người vay.
Theo Ngân hàng Nhà nước, nếu bắt buộc ngân hàng phải đi xác minh từng trường hợp, chi phí và thủ tục sẽ phát sinh thêm, vừa làm chậm quá trình cho vay, vừa gây khó khăn trong xử lý nợ xấu. Do đó, nghĩa vụ chứng minh phải thuộc về người vay - chủ sở hữu tài sản.
Ngọc Mai