Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
Chiều 24/11/2025, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.
Một số dự án, công trình đã có trong quy hoạch phát triển điện lực không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư
Trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, Luật Quy hoạch hiện hành còn thiếu cơ chế điều chỉnh linh hoạt, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, khiến nhiều dự án điện lực chậm tiến độ. Nhiều địa phương đề xuất bổ sung trạm biến áp, đường dây, điều chỉnh phương án đấu nối các nguồn điện để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng nhu cầu phụ tải tăng cao nhưng chưa có quy định điều chỉnh linh hoạt nên các dự án vẫn còn vướng mắc.
Dự thảo Nghị quyết tập trung quy định về nguyên tắc, căn cứ, quy trình và thẩm quyền điều chỉnh linh hoạt quy hoạch để tháo gỡ vướng mắc.
Để đẩy nhanh tiến độ đầu tư, dự thảo Nghị quyết quy định các dự án, công trình điện lực đã có trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, trừ các dự án đầu tư điện lực thuộc thẩm quyền quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội; dự án đầu tư lưới điện trung áp, hạ áp; dự án, công trình điện lực khẩn cấp và dự án điện gió ngoài khơi.
Đối với các dự án, công trình lưới điện truyền tải trong quy hoạch phát triển điện lực, UBND cấp tỉnh quyết định giao doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc doanh nghiệp do doanh nghiệp này nắm giữ 100% vốn điều lệ làm chủ đầu tư.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
Dự thảo đề xuất miễn trừ thời gian hoạt đông và số năm báo cáo tài chính cần cung cấp trong điều kiện vay lại vốn ODA và ưu tiên bố trí và cấp vốn từ ngân sách nhà mước để tăng vốn điều lệ cho Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng phục vụ vận hành hệ thống điện và thị trường điện để tháo gỡ các khó khăn do đây là doanh nghiệp nhà nước đặc thù thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước nhưng mới được thành lập từ năm 2024.
Ngoài ra, dự thảo Nghị quyết đưa ra các trường hợp giao nhà đầu tư không thông qua đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư ngoài đối tượng đã được quy định tại pháp luật hiện hành.
Thúc đẩy cơ chế mua bán điện trực tiếp
Về điện gió ngoài khơi, dự thảo Nghị quyết quy định cụ thể xử lý chi phí khảo sát, lập đề xuất chủ trương đầu tư; quy định thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư của UBND tỉnh trên cơ sở điểm gom công suất. Bộ Công Thương có thẩm quyền trong việc công bố diện tích khảo sát, diện tích sử dụng cơ sở. Đồng thời thiết lập cơ chế giao nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp lớn nhà nước, doanh nghiệp Việt Nam khác có uy tín, thực lực thực hiện nhiệm vụ phát triển điện gió ngoài khơi quy mô lớn gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh. Bổ sung quy định cách thức xác định vị trí dự án và tăng ưu đãi đối với dự án điện gió ngoài khơi.
Dự thảo Nghị quyết còn quy định nhằm thúc đẩy cơ chế mua bán điện trực tiếp theo tinh thần Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, bao gồm: mở rộng đối tượng cho phép đơn vị bán lẻ điện tại khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tham gia trực tiếp cơ chế mua bán điện; bổ sung rõ hơn quy định về giá mua bán điện thông qua cơ chế mua bán điện trực tiếp do các bên tự đàm phán, thỏa thuận thống nhất.
Đối với lĩnh vực dầu khí và than, các dự án đầu tư thuộc danh mục dự án, công trình dầu khí quan trọng, cấp bách của quốc gia và các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư ngành than sẽ không phải thực hiện thủ tục chấp thuận đầu tư, chủ trương đầu tư, ngoại trừ dự án đầu tư dầu khí và than thuộc thẩm quyền quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội và các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư công.
Ngoài ra, dự thảo cũng đề xuất cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tại Luật Dự trữ quốc gia đối với dự trữ quốc gia xăng dầu, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác này.
Thiết kế chính sách thận trọng, không tạo khoảng trống pháp lý
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn nhưng đưa ra nhiều lưu ý quan trọng.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ cơ chế kiểm soát khi thực hiện các chính sách đặc thù và báo cáo, xin ý kiến cấp có thẩm quyền về các cơ chế, chính sách đề xuất để bảo đảm đầy đủ cơ sở chính trị. Đặc biệt, cần rà soát, bám sát các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng (Quy định 178, 189) để thiết kế chính sách thận trọng, bảo đảm các cơ chế, chính sách được ban hành không hợp thức hóa các sai phạm trước đó và không tạo khoảng trống pháp lý.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi trình bày báo cáo thẩm tra dự án Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
Báo cáo thẩm tra nhận định, dự thảo Nghị quyết liên quan đến nhiều văn bản pháp luật, tuy nhiên, hồ sơ chưa đánh giá đầy đủ các dự án luật, nghị quyết đang cùng trình kỳ họp Quốc hội thứ 10 này và một số luật dự kiến trình trong chương trình lập pháp 2026. Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cơ quan soạn thảo phân định rõ tính cấp bách và tính hợp lý của từng giải pháp, xác định rõ nội dung nào phải quy định tại nghị quyết này, nội dung nào đưa vào các luật/nghị quyết đang trình và nội dung nào sẽ sửa ở kỳ tới. Đối với các cơ chế, chính sách giải quyết vấn đề có tính chất lâu dài, cần rà soát để đề xuất sửa đổi tại các luật có liên quan.
Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đặc biệt lưu ý một số nội dung lớn có sự khác biệt với các quy định hiện hành của pháp luật về đất đai, bảo lãnh Chính phủ, bảo lãnh ngoại hối, thời hạn BOT, lựa chọn nhà đầu tư và cam kết bằng đô la Mỹ. Đây là những chính sách có tác động lớn, vượt khung pháp luật hiện hành, ảnh hưởng đến an ninh năng lượng, an toàn tài chính, tiền tệ quốc gia, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cơ quan chủ trì thẩm tra đề nghị cơ quan soạn thảo thuyết minh rõ ràng về sự cần thiết, cơ sở để đề xuất và báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo trước khi tiếp thu, hoàn thiện dự thảo trình Quốc hội.
Tập trung vào cơ chế chính sách phát triển năng lượng giai đoạn 2026 - 2030 theo đúng tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW
Cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho rằng cần đánh giá và làm rõ về tên gọi và mục tiêu thực sự của Nghị quyết để tránh nhầm lẫn.
Theo đó, cần xem xét lại dự thảo Nghị quyết này thực sự là để tháo gỡ khó khăn vướng mắc hay là quy định cơ chế chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nếu chỉ xác định là tháo gỡ khó khăn vướng mắc thì cần phải đánh giá đây là những khó khăn vướng mắc nào.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị nên tập trung vào cơ chế chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 theo đúng tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đồng tình với quan điểm này và đề nghị Nghị quyết này nên tập trung vào cơ chế chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 theo đúng tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị. Các nội dung tháo gỡ khó khăn vướng mắc có thể quy định trong nội hàm, nhưng tên gọi không nên đặt nặng vào việc tháo gỡ, đặc biệt khi các vấn đề vướng mắc trước đó đã có Kết luận của Bộ Chính trị.
Một vấn đề khác được Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh là sự thiếu đồng bộ của một số quy định trong dự thảo Nghị quyết với các dự án luật quan trọng đang được Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Ví dụ, đối chiếu với Luật Đầu tư, Điều 6 và Điều 19 của dự thảo Nghị quyết đang quy định dự án điện lực thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội thực hiện theo pháp luật về đầu tư. Tuy nhiên, dự thảo Luật Đầu tư mới đang trình lại hầu như đã bỏ quy định về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội. Nếu giữ quy định này trong Nghị quyết sẽ trở nên vô nghĩa và đề nghị rà soát lại để đảm bảo đồng bộ.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho rằng cần rà soát để đảm bảo tính đồng bộ của một số quy định trong dự thảo Nghị quyết với các dự án luật quan trọng đang được Quốc hội xem xét, cho ý kiến
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo làm rõ các nội dung trong dự thảo Nghị quyết có thể được xử lý trong các luật liên quan (như Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư…) đang sửa đổi lần này hay không và rà soát các quy định của dự thảo Nghị quyết với các dự án luật để đảm bảo tính khả thi và căn cứ thẩm quyền phê duyệt điều chỉnh.
Thận trọng với cơ chế đặc thù về hợp đồng BOT và thế chấp đất
Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đặc biệt quan tâm và yêu cầu làm rõ các cơ chế đặc thù liên quan đến áp dụng pháp luật nước ngoài trong hợp đồng BOT và việc thế chấp quyền sử dụng đất.
Đối với Khoản 1 Điều 10 quy định về cơ chế áp dụng dự án BOT điện, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nêu lên sự không rõ ràng về thời điểm các bên lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài, “liệu là áp dụng theo pháp luật nước ngoài đã được thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng từ đầu, hay chỉ khi xảy ra tranh chấp thì các bên mới thỏa thuận chọn luật áp dụng”. Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng khẳng định theo nguyên tắc chung, các bên phải thỏa thuận luật áp dụng từ đầu, nếu để đến lúc tranh chấp mới thỏa thuận thì sẽ phát sinh thêm một tranh chấp khác.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cũng đề nghị cơ quan soạn thảo tính toán lại thật kỹ việc cho phép áp dụng luật nước ngoài đối với dự án BOT điện và dự án công trình điện quan trọng, cấp bách của quốc gia.
Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đặc biệt quan tâm và yêu cầu làm rõ các cơ chế đặc thù liên quan đến áp dụng pháp luật nước ngoài trong hợp đồng BOT và việc thế chấp quyền sử dụng đất
Về Khoản 3 Điều 10 quy định cho phép thế chấp quyền sử dụng đất mà tổ chức kinh tế được thuê và trả tiền một lần tại tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức tín dụng nước ngoài thông qua tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đặt câu hỏi về tính đặc thù so với Khoản 1 Điều 33 của Luật Đất đai hiện hành. Trong khi đó, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh vấn đề này cần làm rõ cơ chế thế chấp và khẳng định pháp luật về đất đai hiện nay chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức tín dụng nước ngoài. Do đó, nếu cần thiết quy định, cần phải đánh giá tác động cụ thể, xin ý kiến cấp có thẩm quyền tương tự như chính sách dành cho trung tâm tài chính quốc tế.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan thẩm tra lưu ý và tính toán kỹ 5 vấn đề trọng tâm khác:
(1) Bảo lãnh Chính phủ: Cần làm rõ hình thức bảo lãnh gián tiếp, đánh giá toàn diện tác động đối với an toàn nợ công và ổn định tài khóa, đồng thời làm rõ giải pháp để tối đa hóa rủi ro tài chính Nhà nước, rút kinh nghiệm từ trường hợp dự án Nghi Sơn.
(2) Sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn và thời gian áp dụng cho các dự án sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu.
(3) Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA).
(4) Quy trình giá điện trong hợp đồng mua bán điện được tính bằng Đô la Mỹ và Chính phủ bảo lãnh hỗ trợ chuyển đổi sang Đô la Mỹ đối với doanh thu của dự án.
(5) Quy định dự án điện gió ngoài khơi được áp dụng sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn (90% sản lượng điện bình quân nhiều năm trong thời hạn trả nợ gốc vốn vay).
Cơ bản, các ý kiến thảo luận đều đồng tình về chủ trương ban hành Nghị quyết, nhưng yêu cầu rà soát và điều chỉnh triệt để để đảm bảo tính chính danh về mục tiêu (tập trung vào phát triển), tính đồng bộ với các dự án luật đang sửa đổi và tính hợp lý, rõ ràng của các cơ chế đặc thù, tránh phát sinh hệ lụy và rủi ro cho Nhà nước.
Thy Thảo