Về việc sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến giao dịch phải công chứng, tại dự thảo Tờ trình Bộ Tư pháp có một số ý kiến như sau: hiện nay, các loại giao dịch phải công chứng đang được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nội dung. Luật Công chứng không quy định cụ thể về các loại giao dịch này mà chỉ quy định tiêu chí xác định các giao dịch phải công chứng là giao dịch quan trọng, đòi hỏi mức độ an toàn pháp lý cao và được luật quy định hoặc luật giao Chính phủ quy định phải công chứng. Bộ Tư pháp có trách nhiệm rà soát, cập nhật, đăng tải các giao dịch phải công chứng, chứng thực trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (Điều 3 Luật Công chứng năm 2024).
Thực hiện chủ trương đơn giản hóa các thủ tục, để tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân có nhu cầu công chứng giao dịch, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hạn chế việc lạm dụng, gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân, Bộ Tư pháp đã thực hiện rà soát tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có quy định về giao dịch phải công chứng, chứng thực trên cơ sở kết quả đã rà soát của các Bộ, ngành, tổ chức có liên quan và cập nhật quy định của các Luật, nghị định mới có hiệu lực sau thời điểm thực hiện rà soát (tháng 5/2025).
Theo đó, Bộ Tư pháp đề xuất chuyển một số loại giao dịch từ “phải công chứng, chứng thực” sang công chứng, chứng thực tự nguyện, theo yêu cầu.
Do đó, để đảm bảo thống nhất, ổn định, đồng thời để điều chỉnh quy định phải công chứng, chứng thực đối với các loại giao dịch trên, Bộ Tư pháp xin ý kiến Chính phủ về việc quy định cụ thể về các giao dịch phải công chứng, chứng thực và việc sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan về giao dịch phải công chứng, chứng thực trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng.
Đề xuất quy định cụ thể 9 giao dịch phải công chứng (ảnh minh họa).
Theo đó, Dự thảo Luật sửa đổi Luật Công chứng đề xuất sửa đổi Điều 3 quy định giao dịch phải công chứng như sau:
Thứ nhất, hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, trừ hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản;
Thứ hai, văn bản thỏa thuận của các thành viên có chung quyền sử dụng đất đồng ý đưa quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp.
Thứ ba, hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, trừ trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết; mua bán, thuê mua nhà ở thuộc tài sản công; mua bán, thuê mua nhà ở mà một bên là tổ chức, bao gồm: nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân, nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; thuê, mượn, ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở.
Thứ tư, văn bản tặng cho bất động sản, trừ trường hợp được đăng ký theo quy định của luật; hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh bất động sản; hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng mà các bên tham gia giao dịch là cá nhân.
Thứ năm, văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; văn bản chấp thuận của người sử dụng đất đồng ý cho xây dựng công trình; văn bản thừa kế về nhà ở.
Thứ sáu, văn bản lựa chọn người giám hộ.
Thứ bảy, di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ.
Thứ tám, văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn; văn bản sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ chín, văn bản ủy quyền giải quyết việc thi hành án liên quan đến tài sản khi người phải thi hành án xuất cảnh.
Đối với các giao dịch dân sự không được quy định phải công chứng, việc công chứng được thực hiện theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức.
Việc chứng thực các giao dịch dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực.
Hoàng Mai