Ngành dệt may Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ, thoát khỏi mô hình gia công giá rẻ để tiến tới tự thiết kế, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị gia tăng. Sau nhiều năm phụ thuộc các đơn hàng gia công nước ngoài, nhiều doanh nghiệp trong ngành đang dần khẳng định vị thế mới - từ "làm thuê" sang "làm chủ" chuỗi sản xuất thời trang.
Chuyển biến tích cực
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), trong 9 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt hơn 34,7 tỉ USD, tăng gần 8% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tỉ trọng các sản phẩm có thiết kế và mẫu mã riêng tăng rõ rệt. Nhiều thương hiệu lớn như May 10, Việt Tiến, Nhà Bè hay An Phước đã đầu tư mạnh vào trung tâm thiết kế, mời chuyên gia quốc tế và đào tạo đội ngũ sáng tạo trong nước. Không ít bộ sưu tập mang phong cách Việt đã xuất hiện tại các tuần lễ thời trang trong khu vực, góp phần xây dựng hình ảnh thời trang "Made in Vietnam" chuyên nghiệp và hiện đại.
Cùng với đó, doanh nghiệp đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, thiết kế 3D và quản lý chuỗi cung ứng thông minh để rút ngắn thời gian sản xuất, giảm chi phí và đáp ứng nhanh xu hướng thị trường. Một số đơn vị đã bước đầu phát triển dòng sản phẩm bền vững, sử dụng nguyên liệu tái chế và quy trình thân thiện với môi trường, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và xu thế tiêu dùng xanh toàn cầu.
Nhiều công ty may mặc đã tạo ra được sản phẩm giá trị gia tăng cao
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch VITAS, nhìn nhận việc dịch chuyển từ gia công sang tự thiết kế giúp doanh nghiệp Việt Nam chủ động hơn về thị trường, đồng thời tạo nền tảng xây dựng thương hiệu thời trang quốc gia. "Xuất khẩu dệt may của Việt Nam giờ đây có giá trị gia tăng cao, chứ không còn chỉ là hàng gia công giá trị thấp như trước. Chúng ta đã vượt qua giai đoạn đó rồi" - ông Giang khẳng định.
Các báo cáo cho thấy hàng dệt may Việt Nam hiện đã có mặt tại 138 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó nhóm sản phẩm quần áo may mặc đạt hơn 27,8 tỉ USD, chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu và mang lại khoảng 17 tỉ USD thặng dư thương mại.
Việt Nam hiện đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu dệt may, chỉ sau Trung Quốc và Bangladesh. "Ngành dệt may Việt Nam đang đa dạng hóa thị trường, khách hàng và sản phẩm. Đặc biệt, tỉ trọng hàng hóa có giá trị gia tăng cao ngày càng lớn, cho thấy sự chuyển mình mạnh mẽ cả về chất và lượng" - ông Giang nói.
Ông Giang nói thêm bên cạnh đổi mới công nghệ, ngành dệt may Việt Nam đã bắt kịp xu hướng tự động hóa, robot hóa trong sản xuất và đang triển khai nhanh các giải pháp "xanh hóa". "Khách hàng quốc tế giờ không chỉ yêu cầu chất lượng mà còn đòi hỏi nhà cung cấp phải tham gia phát triển mẫu, đưa ra ý tưởng thiết kế và chủ động về nguyên phụ liệu. Bù lại, doanh nghiệp Việt kiểm soát được chuỗi sản xuất và giá trị gia tăng" - ông Giang chia sẻ.
Cũng theo Chủ tịch VITAS, với 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã ký kết và 6 hiệp định khác đang được hoàn thiện, dự kiến đến năm 2027, Việt Nam sẽ có tới 22 FTA có hiệu lực. Đây là nền tảng quan trọng giúp ngành dệt may mở rộng thị trường, tận dụng ưu đãi thuế quan và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Vẫn còn nhiều thách thức
Ngành dệt may Việt Nam đang hướng tới mô hình phát triển bền vững, sáng tạo và có giá trị gia tăng cao hơn. Song, hành trình này không hề dễ dàng khi doanh nghiệp phải đối mặt hàng loạt thách thức về nhân lực, chi phí và năng lực cạnh tranh.
Lãnh đạo của VITAS thừa nhận một trong những điểm nghẽn lớn là thiếu hụt nguồn nhân lực thiết kế và sáng tạo - yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp dệt may thoát khỏi vòng luẩn quẩn gia công giá rẻ. Trong khi đó, đầu tư vào trung tâm thiết kế, phần mềm 3D hay quảng bá thương hiệu đòi hỏi chi phí rất lớn, không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng thực hiện. Việc tiếp cận thị trường quốc tế cũng chưa thuận lợi - do doanh nghiệp Việt Nam còn yếu trong việc xây dựng kênh phân phối, bảo hộ bản quyền mẫu mã và khẳng định thương hiệu.
Do đó, nếu được hỗ trợ về vốn, đào tạo và xúc tiến thương hiệu thì ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên, thoát khỏi vai trò "làm thuê" và từng bước trở thành trung tâm thiết kế - sản xuất thời trang của khu vực Đông Nam Á.
Chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, ông Phạm Anh Quang, Giám đốc Công ty TNHH May mặc Dony, cho biết công ty của ông đã dành nhiều năm xây dựng phòng thiết kế, xưởng may mẫu, phát triển chuỗi cung ứng nguyên liệu phù hợp và đào tạo đội ngũ nhân sự sáng tạo.
"Không thể tạo ra sản phẩm chỉ vì mình muốn, mà phải hiểu khách hàng cần gì. Nếu sợ thất bại thì mãi không thể thoát khỏi phân khúc gia công. Cứ làm, tích lũy kinh nghiệm, rồi thành công đầu tiên sẽ mở ra cơ hội cho những bước tiến lớn hơn" - ông chia sẻ. Ông Quang tin rằng một khi doanh nghiệp đã có sản phẩm thành công, họ sẽ có thêm nguồn lực, tay nghề và uy tín để mở rộng quy mô và thị trường.
Trong khi đó, ông Trần Như Tùng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công, kỳ vọng rằng để quá trình chuyển đổi diễn ra thuận lợi, doanh nghiệp cần được hỗ trợ về tài chính và chính sách. "Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là xu hướng bắt buộc nhưng chi phí đầu tư rất cao. Các tổ chức tài chính cần có gói vay ưu đãi lãi suất thấp, đồng thời chia sẻ rủi ro thay vì để doanh nghiệp tự gánh hết" - ông nói, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải hình thành các khu công nghiệp dệt - nhuộm quy mô lớn, khoảng vài ngàn héc-ta, nhằm chủ động nguồn nguyên liệu và giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Nhập khẩu nguyên phụ liệu rất lớn
Theo ông Vũ Đức Giang, thách thức lớn nhất hiện nay của ngành dệt may nằm ở chuỗi cung ứng. Chỉ trong 9 tháng đầu năm, ngành đã phải nhập khẩu gần 16 tỉ USD nguyên phụ liệu, trong đó riêng mặt hàng vải chiếm 11,5 tỉ USD. "Sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu khiến doanh nghiệp khó chủ động trong sản xuất, đặc biệt khi thị trường thế giới biến động. Cùng với đó, chính sách tiền lương và chi phí bảo hiểm xã hội tăng sau khi sáp nhập các địa phương cũng tạo thêm gánh nặng cạnh tranh" - ông nói.
Bài và ảnh: Nguyễn Hải