Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh mới

Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh mới
11 giờ trướcBài gốc
Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh mới
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 7/2025, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 10% so với cuối năm 2024, con số tuyệt đối trên 17,3 triệu tỷ đồng. Đây là mức tăng cao nhất ở khoảng thời gian này trong hơn 10 năm qua, giữa lúc các kênh vốn khác như trái phiếu doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu sơ cấp gặp nhiều khó khăn, ngoại trừ một tỷ lệ trái phiếu do các ngân hàng phát hành để tăng vốn hoặc cơ cấu lại danh mục tài sản.
Dồn vốn cho tăng trưởng
Tại “Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay” do Ngân hàng Nhà nước tổ chức ngày 4/8/2025, Lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết trọng tâm trong hoạt động điều hành tín dụng của nhà điều hành vẫn là bằng mọi cách dồn vốn cho khu vực sản xuất, thương mại, đặc biệt là tín dụng “tam nông”, xuất khẩu, công nghệ cao, công trình trọng điểm khả thi và các doanh nghiệp vệ tinh từ các dự án đầu tư công.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ “Nghị định số 156/2025/NĐ-CP về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015” về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Song song, nhà điều hành cũng ban hành tới 15 văn bản chỉ đạo tập trung ở các nội dung: (i) tăng trưởng tín dụng lành mạnh, hướng vào các lĩnh vực căn cơ của nền kinh tế; (ii) Đẩy mạnh số hóa để tiết giảm chi phí từ đó giảm lãi suất cho vay và (iii) tập trung vốn cho một số chương trình tín dụng trọng điểm như: cho vay nông lâm thủy hải sản, cho vay liên kết sản xuất 1 triệu ha lúa chất lượng cao/phát thải thấp ở miền Tây Nam bộ; cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo chung cư cũ theo “Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững”; chương trình cho vay người trẻ dưới 35 tuổi mua nhà ở xã hội; chương trình tín dụng 500 nghìn tỷ cho vay đầu tư hạ tầng và công nghệ số…
Về cơ cấu tín dụng, để phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc cấp tín dụng đã có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng bền vững. Cụ thể, Một số lĩnh vực chiếm tỉ trọng lớn như nông nghiệp nông thôn và doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lần lượt là 23,87% và 19,11%; một số lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao như công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng lần lượt 15,44% và 17,74%.
“Trong 7 tháng đầu năm 2025, Ngân hàng Nhà nước tập trung chỉ đạo hệ thống tăng khả năng tiếp cận vốn ở những lĩnh vực trọng điểm theo chỉ đạo của Chính phủ theo hướng đơn giản hóa thủ tục, phân bổ tín dụng đúng chủ thể, kiểm soát chặt rủi ro”, Lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế cho biết.
Một số chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đạt kết quả khả quan: cho vay nông lâm thủy sản giải ngân hoàn thành mục tiêu 100 nghìn tỷ đồng; cho vay liên kết sản xuất lúa gạo chất lượng cao Đồng bằng sông Cửu Long 5.200 tỷ đồng; chương trình cho vay nhà ở xã hội cải tạo xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33 đạt 4.310 tỷ đồng; chương trình cho vay người trẻ dưới 35 tuổi mua nhà ở xã hội bắt đầu giải ngân được hơn 20,4 tỷ đồng.
Lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế
Đặc biệt, một vấn đề mà Chính phủ rất quan tâm hiện nay là ổn định lãi suất tiền gửi, tạo tiền đề giảm lãi suất tiền vay nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi và phát triển của nền kinh tế.
Về vấn đề này, theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm. Đến ngày 31/7/2025, lãi suất tiền gửi bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới tại các ngân hàng ở mức 4,1%/năm, ổn định so với cuối năm 2024; lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới ở mức 6,5%/năm, giảm khoảng 0,5%/năm so với cuối năm 2024.
Dư địa đã cạn
Một vấn đề đặt ra ở thời điểm này, đó là sự quá tải của kênh vốn tín dụng ngân hàng mà điểm nhạy cảm nhất chính là lãi suất. Từ đây, kéo theo rủi ro về thanh khoản kỳ hạn cũng như tác động đến lạm phát và tỷ giá.
Tại buổi Tọa đàm “Cơ chế kiểm soát tín dụng: Thay thế hạn mức bằng bộ tiêu chí an toàn” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy tổ chức ngày 25/7/2025, ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Phân tích và nghiên cứu, Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF) phân tích: trong bối cảnh hiện nay, đầu tư đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng từ 8% trong năm nay và 2 con số ở những năm tiếp theo.
“Theo tính toán của chúng tôi, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 9% trở lên, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đến năm 2030 sẽ cần xấp xỉ 9 triệu tỷ đồng. Trong đó, nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn là rất lớn và vẫn phụ thuộc phần lớn vào ngân hàng khi mà kênh trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình”, ông Linh nói.
Cũng theo ông Linh, thực tế này kéo theo rủi ro đáng kể đối với hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong bối cảnh phần lớn nguồn vốn huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng (một số báo cáo Ngân hàng Nhà nước ghi nhận con số này ở một số thời điểm lên tới 80% - Pv), trong khi nhu cầu về vốn trung và dài hạn lại rất lớn. Việc các ngân hàng huy động vốn ngắn hạn nhưng cho vay trung và dài hạn, với thời gian từ 3 đến 5 năm, thậm chí lâu hơn, có dự án kéo dài đến vài chục năm sẽ tạo ra rủi ro kỳ hạn nghiêm trọng.
Thêm một số vấn đề nữa, rằng có thể “nén” mặt bằng lãi suất xuống thấp hơn mức hiện tại hay không? Khi lãi suất rẻ hơn thì vốn có chảy vào sản xuất kinh doanh không?
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, ông Nguyễn Quang Thuân, chủ tịch Fiin Group phân tích: đến 30/7/2025, lãi suất bình quân tiền gửi các giao dịch phát sinh mới ở mức 4,1%/năm, nếu so với tương quan lạm phát (7 tháng so với cùng kỳ ở mức 3,18% - Pv) và môi trường kinh tế Việt Nam là đã rất thấp và khó giảm thêm.
“Nếu cứ yêu cầu nén thấp lãi suất xuống thêm nữa là không thể. Vả lại, còn phải xem sức hấp thụ vốn của các doanh nghiệp đến đâu. Số dư tăng trưởng tín dụng mới nhất sau 7 tháng khoảng 1,5 triệu tỷ đồng, quan trọng là khu vực sản xuất thực có hấp thụ được bao nhiêu hay lại chảy vào chứng khoán?”, ông Thuân băn khoăn.
Tính từ đầu tháng 8 đến 6/8/2025, VN-Index nối dài một màu xanh, kết thúc tăng 26,56 điểm lên đỉnh lịch sử 1.573,71 điểm (tính theo giá đóng cửa).
Một ngày trước (5/8/2025), thanh khoản thị trường chứng khoán tăng rất mạnh và thiết lập kỷ lục mới, tính riêng sàn HSX đạt hơn 78,2 nghìn tỷ đồng, tăng 135,6% so với phiên liền trước, cao hơn 112% thanh khoản khớp lệnh trung bình 20 phiên trước đó tại sàn này.
Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy cập nhật thị trường
Đối với tỷ giá thời gian gần đây, dù chỉ số USD trên thế giới nằm trong xu hướng giảm, thậm chí giới phân tích còn tính đến viễn cảnh giá đồng tiền này giảm sâu khi Fed nới lỏng tiền tệ kích thích kinh tế nhưng ở Việt Nam, tỷ giá lại “lừng khừng” trong xu hướng đi lên.
Tuy nhiên, từ giữa tháng 7, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế (DXY) có xu hướng tăng trở lại. Tính đến ngày 31/7/2025, trước thời điểm Mỹ ký sắc lệnh áp thuế toàn cầu mới vào tối cùng ngày (theo giờ Mỹ), chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 99,97 điểm, tăng 3,19% so với tháng trước. Trên thị trường trong nước, ngày 31/7/2025, tỷ giá giao dịch USD/VND bình quân trên thị trường liên ngân hàng khoảng 26.206 VND/USD, tăng 0,45% so với cuối tháng trước, tăng 3,70% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,86% so với cuối năm 2024.
Tỷ giá trung tâm diễn biến linh hoạt theo cả hai chiều, sau phiên giảm vào ngày 5/8, tỷ giá trung tâm ngày 6/8 tăng 13 đồng lên mức 25.232 VND/USD. Với biên độ +/-5%, tỷ giá trần là 26.494 VND/USD, còn tỷ giá sàn là 23.970 VND/USD. Theo đó, lúc 10h sáng 6/8, Vietcombank niêm yết giá mua/bán ở mức 26.030 - 26.420 VND/USD tăng 50 đồng cả 2 chiều; mức giá này ở VietinBank là 26.061- 26.421 VND/USD, tăng 109 đồng đối với chiều mua và giảm 9 đồng đối với chiều bán.
Theo các chuyên gia, việc duy trì lãi suất VND thấp trong thời gian dài (lãi suất cho vay bình quân hiện chỉ quanh mức 6,4%/năm, rất thấp trong nhiều năm gần đây) cho thấy dư địa của chính sách tiền tệ đã không còn nhiều.
Đó là chưa nói đến biên độ lãi suất “đô – đồng” quá hẹp thì sẽ kích hoạt tâm lý thị trường đảo chiều sang nắm và găm giữ USD, gây áp lực mạnh lên tỷ giá. Lúc đó, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vốn đầu tư FDI cũng như dự trữ ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước đang “bốc thuốc, kê đơn” như thế nào?
Trong 7 tháng đầu năm, tình hình thị trường trong và ngoài nước có nhiều khó khăn, thách thức, biến động từ các chính sách thuế quan của Mỹ, trong bối cảnh Quốc hội và Chính phủ vẫn đặt mục tiêu GDP 2025 phải từ 8% trở lên để làm cơ sở cho tăng trưởng 2 con số ở những năm tiếp theo, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng co kéo điều hành trong một không gian chật hẹp để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Sau khi đã điều chỉnh giảm mạnh lãi suất từ năm 2023, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong các tháng đầu năm 2025
Ngân hàng Nhà nước cho biết sau khi đã điều chỉnh giảm mạnh lãi suất từ năm 2023, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong các tháng đầu năm 2025 nhằm tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp góp phần hỗ trợ nền kinh tế.
Hầu hết các công cụ chính sách tiền tệ đều đã được sử dụng và sử dụng một cách linh hoạt để phù hợp với diễn biến thị trường cũng như mục tiêu mà Chính phủ đặt ra.
Trên thị trường mở, hoạt động chào mua kỳ hạn giấy tờ có giá (bơm/hút) được tiến hành đều đặn hàng ngày, với một khối lượng phù hợp đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, một điểm nhấn trong hoạt động “bơm/hút” của nhà điều hành là giao dịch các loại giấy tờ có giá đa dạng kỳ hạn, nhờ đó, các đơn vị tiếp nhận nguồn vốn này vừa giải quyết tốt nhu cầu thanh khoản, vừa dư giả nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, từ đó để giảm mặt bằng lãi suất.
Song song, nhà điều hành cũng triển khai nhiều giải pháp như: (1) Chỉ đạo tổ chức tín dụng tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động, chuyển đổi số và các giải pháp khác để phấn đấu hạ lãi suất cho vay; (2) Làm việc và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo hệ thống ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; (3) Chỉ đạo tổ chức tín dụng công bố công khai, minh bạch thông tin lãi suất cho vay trên website để cung cấp thông tin cho khách hàng tham khảo khi tiếp cận vốn vay.
Trong bối cảnh triển vọng kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với rủi ro từ các diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt là căng thẳng thương mại leo thang và biến động tài chính, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu; lạm phát trong xu thế giảm nhưng thiếu chắc chắn do tác động từ chính sách tăng thuế nhập khẩu của chính quyền Mỹ. Trong khi vấn đề lãi suất của Fed bất định khó đoán và tác động của các chính sách thương mại, thuế quan của Mỹ tiếp tục tiềm ẩn rủi ro, gây thách thức lớn đối với thị trường hàng hóa, tài chính – tiền tệ toàn cầu. Tất cả những rủi ro tiềm ẩn nêu trên đều có nguy cơ cao thẩm thấu vào thị trường tài chính - tiền tệ của Việt Nam.
Cùng với đó, Quốc hội xác định mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên (Chính phủ đặt mục tiêu 8,3-8,5%), góp phần tạo nền tảng vững chắc để đạt tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030, trên cơ sở yêu cầu tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Đây là một bài toán rất khó đặt ra đối với chính sách tiền tệ trong bối cảnh mới, luôn có nhiều biến động...
Nguyễn Hoài - Phương Linh
Nguồn VnEconomy : https://vneconomy.vn/dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-trong-boi-canh-moi.htm