TS. Bùi Bá Nghiêm, Chuyên viên cao cấp Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương tham luận tại Hội thảo khoa học với chủ đề "Phát triển Việt Nam trở thành Quốc gia thương mại tự do", do Cục Xuất nhập khẩu phối hợp với Trường Đại học Thủ đô Hà Nội tổ chức ngày 19/12/2025
Trong bối cảnh thế giới đang biến động nhanh, phức tạp và khó lường, thương mại quốc tế tiếp tục giữ vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế và kết nối các quốc gia. Tuy nhiên, tự do hóa thương mại ngày nay đã bước sang một giai đoạn mới, với nội hàm sâu rộng hơn, yêu cầu cao hơn và thách thức lớn hơn rất nhiều so với trước đây.
Tự do hóa thương mại không còn chỉ là việc cắt giảm thuế quan hay mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế, mà ngày càng gắn chặt với các vấn đề về an ninh kinh tế, chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn môi trường - xã hội, chuyển đổi số và năng lực thực thi chính sách của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy tự do hóa thương mại của Việt Nam, đồng thời định hình tầm nhìn xây dựng Việt Nam trở thành Quốc gia thương mại tự do, là một yêu cầu mang tính chiến lược, có ý nghĩa lâu dài đối với phát triển đất nước.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở cao trên thế giới. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt khoảng 786 tỷ đô la Mỹ, tăng hơn 15% so với năm 2023, xuất khẩu đạt khoảng 405 tỷ USD, nhập khẩu khoảng 381 tỷ USD và tiếp tục duy trì thặng dư thương mại. Trên cơ sở đà phục hồi và xu hướng của thương mại toàn cầu, Tính đến 11 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 840 tỷ USD - đây là mức cao nhất trong lịch sử, trong đó xuất khẩu đạt khoảng 430 tỷ USD, nhập khẩu khoảng 410 tỷ USD và cán cân thương mại tiếp tục duy trì xuất siêu trên 20 tỷ USD.
Những con số này phản ánh rõ vai trò ngày càng quan trọng của thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời cho thấy Việt Nam đã và đang tham gia sâu vào dòng chảy thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, khi quy mô thương mại đã lớn, dư địa tăng trưởng theo chiều rộng không còn nhiều; yêu cầu đặt ra là phải chuyển mạnh sang tự do hóa thương mại theo chiều sâu, dựa trên nâng cao năng lực cạnh tranh thực chất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của hệ thống thể chế.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, có thể nhận diện rõ một xu hướng nổi bật: thế giới không quay lưng với tự do hóa thương mại, nhưng không còn theo đuổi tự do hóa tuyệt đối. Cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn, xung đột Nga - Ukraine kéo dài, bất ổn tại Trung Đông, cùng với sự gia tăng các biện pháp phòng vệ thương mại, các chính sách công nghiệp và chính sách an ninh chuỗi cung ứng, đang làm cho thương mại toàn cầu ngày càng phân mảnh và rủi ro hơn.
Đặc biệt, nhiều nền kinh tế lớn, trong đó có Hoa Kỳ, đang áp dụng các biện pháp bảo hộ có chọn lọc, tăng cường điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng thuế và các rào cản kỹ thuật, gắn thương mại với mục tiêu bảo vệ sản xuất trong nước, chuyển đổi năng lượng và an ninh quốc gia. Điều này cho thấy một thực tế rõ ràng: tự do hóa thương mại ngày nay luôn song hành với bảo hộ có điều kiện và quốc gia thành công là quốc gia biết mở cửa thị trường một cách chủ động, có chọn lọc, đồng thời giữ vững năng lực tự chủ và quản lý rủi ro.
Ở trong nước, Việt Nam có nhiều thuận lợi quan trọng để thúc đẩy tự do hóa thương mại. Chúng ta đã ký kết và đang thực thi 17 Hiệp định Thương mại tự do (FTA), bao phủ hơn 60 nền kinh tế, chiếm khoảng 70% GDP toàn cầu. Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có mạng lưới FTA rộng và sâu hàng đầu thế giới. Cùng với đó là sự phát triển nhanh của khu vực sản xuất - xuất khẩu, của hệ thống logistics, của thương mại điện tử và thương mại số. Dự báo đến năm 2025, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam có thể đạt khoảng trên 30 đến 50 tỷ đô la Mỹ, với tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, cũng còn không ít khó khăn và thách thức. Chi phí logistics của Việt Nam vẫn ở mức khá cao so mức trung bình của nhiều nước trong khu vực, hạ tầng logistics chưa đồng bộ, chuyển đổi số còn phân mảnh. Năng lực tận dụng ưu đãi từ các FTA chưa đồng đều giữa các ngành, các địa phương và các nhóm doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, truy xuất nguồn gốc và yêu cầu xanh hóa của thị trường quốc tế. Những điểm nghẽn này nếu không được tháo gỡ sẽ làm giảm hiệu quả thực chất của quá trình tự do hóa thương mại.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia thành công trong hội nhập và tự do hóa thương mại như: Singapore, Hà Lan, Hàn Quốc hay Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đều không chỉ dựa vào mở cửa thị trường mà chủ động xây dựng một hệ sinh thái thương mại tự do. Hệ sinh thái đó bao gồm thể chế minh bạch, hạ tầng và logistics hiện đại, thương mại số phát triển, chuỗi cung ứng xanh, nguồn nhân lực chất lượng cao và sự đồng hành hiệu quả của Chính phủ với doanh nghiệp. Tự do hóa thương mại, trong cách tiếp cận này chính là năng lực cạnh tranh quốc gia được tổ chức một cách bài bản và bền vững.
Việt Nam có nhiều thuận lợi quan trọng để thúc đẩy tự do hóa thương mại.
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm quốc tế, có thể khẳng định rằng: thúc đẩy tự do hóa thương mại trong bối cảnh hiện nay cần được đặt trong một tầm nhìn chiến lược dài hạn với những quan điểm và định hướng lớn mang tính xuyên suốt như sau:
Thứ nhất, tự do hóa thương mại là động lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển nhưng phải gắn với nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế, bảo đảm tự chủ và bền vững. Mở cửa thị trường phải đi đôi với nâng cao năng lực sản xuất, logistics, tiêu chuẩn và quản trị rủi ro.
Thứ hai, hiện đại hóa quản lý nhà nước về thương mại, theo hướng quản lý dựa trên dữ liệu và rủi ro, đẩy mạnh số hóa, liên thông thông tin giữa các cơ quan quản lý và với doanh nghiệp, tăng hiệu quả kiểm tra chuyên ngành và tạo thuận lợi cho luồng hàng với mục tiêu là tăng minh bạch đi đôi với giảm thời gian, giảm chi phí và giảm tiếp xúc.
Thứ ba, chủ động thúc đẩy thương mại số, thương mại xanh. Đây là điều kiện tiên quyết để “giữ thị trường” và “mở rộng thị trường” trong giai đoạn tới.
Thứ tư, cần chuyển mạnh từ tư duy tận dụng ưu đãi sang tư duy nâng chuẩn để hội nhập sâu và bền vững. Trong bối cảnh rào cản phi thuế quan ngày càng gia tăng, khả năng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế chính là “giấy thông hành” của hàng hóa Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Thứ năm, thương mại cần được nhìn nhận như một hệ thống chính sách liên thông giữa thương mại, đầu tư, công nghiệp, logistics, hải quan, tiêu chuẩn và dữ liệu. Chỉ khi các chính sách này được thiết kế đồng bộ, tự do hóa thương mại mới phát huy đầy đủ hiệu quả.
Thứ sáu, doanh nghiệp là trung tâm của quá trình tự do hóa thương mại, Chính phủ giữ vai trò kiến tạo, dẫn dắt và bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch và ổn định.
Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số khuyến nghị trọng tâm gồm:
Đối với Chính phủ và các Bộ, ngành trung ương, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế theo hướng tạo thuận lợi hóa thương mại thực chất trên tinh thần “một chính sách - nhiều lợi ích”; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa quản lý nhà nước về thương mại, xuất nhập khẩu dựa trên nền tảng số và quản lý rủi ro; phát triển mạnh hạ tầng logistics, vận tải đa phương thức, kết nối cửa khẩu - cảng biển - trung tâm logistics; đồng thời chủ động thúc đẩy thương mại số và thương mại xanh tạo lập hệ sinh thái logistics quốc gia thông minh - xanh - bền vững, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn mới của thị trường quốc tế.
Đối với các địa phương, cần gắn phát triển thương mại với quy hoạch vùng, lợi thế so sánh và hạ tầng logistics; chủ động hỗ trợ doanh nghiệp địa phương tham gia sâu vào các chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng; nâng cao năng lực cung cấp thông tin thị trường, cảnh báo rào cản kỹ thuật và phòng vệ thương mại.
Đối với các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp, cần nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu theo hướng xanh, số và bền vững; tăng cường liên kết chuỗi, đầu tư vào logistics, công nghệ và quản trị hiện đại; coi hội nhập và tự do hóa thương mại là động lực đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn.
Trong một thế giới vừa thúc đẩy tự do hóa, vừa gia tăng bảo hộ có chọn lọc, Việt Nam cần một cách tiếp cận bình tĩnh hơn nhưng cũng phải chủ động và quyết liệt hơn. Chúng ta đã hội nhập sâu, đã có nền tảng thương mại vững chắc, đã có mạng lưới FTA rộng khắp thế giới. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay chúng ta cần làm ngay là chuyển từ hội nhập về lượng sang hội nhập về chất, từ cam kết trên giấy sang năng lực thực thi trong thực tiễn.
Với vai trò kiến tạo của Chính phủ, sự chủ động của các địa phương, sự đồng hành của các hiệp hội ngành hàng và tinh thần đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng rằng Việt Nam không chỉ tiếp tục là một nền kinh tế hội nhập sâu rộng mà hoàn toàn có thể từng bước hiện thực hóa tầm nhìn trở thành Quốc gia thương mại tự do hiện đại và bền vững, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
TS. Bùi Bá Nghiêm, Chuyên viên cao cấp
Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương