Nghi lễ được thực hiện tại đình Tú Luông
Ngôi đình bề thế về kiến trúc
Đình Tú Luông được gọi theo tên của làng Tú Luông ngày trước. Hiện ngôi đình tọa lạc trên đường Tú Luông, phường Phan Thiết. Như những đình khác ở khu vực Đông Nam tỉnh, đình Tú Luông do toàn thể hương chức và Nhân dân trong làng dựng nên. Qua khảo sát, đối chiếu từ kết cấu kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật trang trí tạo hình, các di vật cổ còn lại và tìm hiểu gia phả của một số tộc họ định cư lâu đời ở trong làng, đơn vị chuyên môn xác định ngôi đình được tạo lập vào khoảng đầu thế kỷ XIX.
Theo ông Nguyễn Hữu Tứ - Trưởng Ban Quản lý đình làng Tú Luông: Lúc mới khai lập, Tú Luông là một trong những làng quê có vị thế tọa lạc lý tưởng, thuận tiện làm ăn sinh sống và sớm có kinh tế ổn định ở Phan Thiết.
Ở đình Tú Luông hiện còn lưu giữ bức hoành cổ khắc ghi chữ Hán nói rõ về địa dư và cảnh quan của làng. So với các di tích ở khu vực Đông Nam tỉnh, đình Tú Luông có kết cấu kiến trúc đặc sắc. Ở đây sử dụng đồng thời 2 dạng kiến trúc dân gian tiêu biểu, đó là dạng kiến trúc “tứ trụ” và “trùng thiềm điệp ốc” phối kết hợp. Trong kết cấu kiến trúc, gỗ, gạch đóng vai trò quan trọng.
Trong đó, gỗ là vật liệu chính yếu để tạo nên bộ khung liên kết của từng nóc đình, tiếp đến là chất vữa pha chế bằng kinh nghiệm dân gian từ vôi, vỏ sò, cát, mật đường, nhựa cây... làm chất kết dính xây dựng nên các bức tường vững chắc và nóc đình trang nghiêm, cổ kính.
Các vật liệu lợp và lát nền vẫn còn bảo lưu, đó là ngói âm dương cổ và gạch bát tràng vốn được sử dụng phổ biến trong công trình kiến trúc dân gian lúc bấy giờ. Hàng trăm bộ phận chi tiết gỗ nhất loạt là loại gỗ quý (căm xe, căm liên) chịu được mối mọt, tất cả được nghệ nhân xưa dày công đục chạm, tinh xảo... Vì thế, bất cứ ai đến đây, đều bị níu chân bởi vẻ đẹp kiến trúc cổ kính, không phô trương mà rất gần gũi, thân thiết.
Lưu giữ nét đẹp cộng đồng
Đình Tú Luông đã được các đời vua Triều Nguyễn công nhận bảo hộ, coi đó là thiết chế văn hóa cộng đồng làng xã, gắn liền với đời sống tâm linh, tín ngưỡng của Nhân dân. Hiện tại, đình còn lưu giữ 10 sắc phong của các đời vua Triều Nguyễn.
Ngoài ra, ở đình còn lưu lại 2 chiếc đại hồng chung đúc đồng có niên đại vào cuối thế kỷ XIX. Cả 2 chiếc đại hồng chung đóng vai trò quan trọng trong việc hòa âm, nhạc lễ hàng năm. 6 long khám, 4 hương án, 3 bức bao lam và 2 chiếc án thư. Đây là những di vật đóng ghép bằng gỗ quý, được chạm trổ, điêu khắc công phu, sắc nét.
Những di vật này có chức năng quan trọng trong việc bài trí thờ phụng ở nội thất. 20 bức hoành phi và 16 câu đối, toàn bộ chạm khắc chữ Hán cổ sắc nét trên những loại gỗ tốt. Mỗi bức có kích cỡ khác nhau, một số có chạm lộng viền quanh những hình tượng giao long, hoa lá thanh nhã. Nội dung ca ngợi uy quyền của thần linh, truyền lại cho con cháu về công ơn to lớn của ông bà, tổ tiên; chỉ giáo thế hệ đi sau nếp thuần phong mỹ tục và truyền thống tốt đẹp của dân tộc... Với những giá trị đó, ngôi đình đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật dân gian cấp tỉnh.
Hàng năm, đình vẫn duy trì tổ chức 2 kỳ lễ hội chính (tế Xuân vào ngày 11 - 12 tháng 2 âm lịch, tế Thu vào ngày 16 - 17 tháng 8 âm lịch) để tạ ơn Thành hoàng, Tiền hiền và ông bà tổ tiên. Đây là dịp để những người con xa quê luôn nhớ về, thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm, nhắc nhở cho mình lối sống lành mạnh, có ích.
“Hàng năm, dân làng vẫn giữ lễ thành hoàng làng. Chắc rằng các thế hệ sau này vẫn nối tiếp đời cha ông như thế để giữ lấy bản sắc văn hóa quê hương”.
Bà Phan Thị Mai, 80 tuổi, phường Phan Thiết
Thùy Linh .