Đình - vạn Phước Lộc
Theo sách Đại Nam Nhất thống chí (tập 12), trên hệ thống dịch trạm theo đường quan lộ thời Nhà Nguyễn (1845) từ Bắc vào Nam có 12 trạm. Trong đó có “trạm Thuận Phước thuộc phường Phước Lộc, huyện Tuy Lý” nằm phía Nam trạm Thuận Trình (cạnh sông Ma Ly- ngảnh Tam Tân) ở thôn Tân Hoàng, huyện Tuy Lý chạy dọc theo bờ biển. Trạm Thuận Phước nằm giữa cung đường cái quan của hai trạm Thuận Lý (thuộc Phan Thiết) và 2 trạm Thuận Phương, Thuận Biên (giáp đất Biên Hòa).
Phước Lộc là vùng đất rộng nằm bên hữu ngạn cửa biển La Gi, có đồn binh canh giữ. Ở đây là cửa biển của con sông Dinh lớn trong khu vực, bên biển bên rừng, vừa có lợi thế cho nghề biển vừa có đất đai phì nhiêu cho nghề nông, nên hội tụ cư dân khá nhanh, nhiều nhất là lưu dân từ các tỉnh miền Trung. Trong số câu đối ở điện thờ có ghi địa danh Phước/Phúc Lộc theo chữ Hán Nôm với nghĩa:“Phúc lành và tài lộc”.
Qua các thời kỳ, suốt từ khi mở đất lập làng cho đến sau chiến tranh chống Pháp, 2 cơ sở dinh vạn, đình làng thuộc vùng “tiêu thổ kháng chiến” nên cơ ngơi thờ phụng chỉ còn những xác gỗ cột kèo, khuôn cửa... nhưng với sức mạnh lòng tin thuần phác của người dân làng biển vào tín ngưỡng thần linh che chở trước phong ba, bão táp và lúc mất mùa biển động, ngư dân lại thích nghi với nghề nông, đất ruộng kề cạnh đã hình thành nếp sống hòa hợp, tính nhân văn rất riêng của cư dân tứ xứ dựng nên làng biển Phước Lộc đủ đầy.
Theo đó, qua khảo tả của ngành bảo tàng đã xác lập:“Di tích hàm chứa 2 chức năng; vừa tôn thờ Thành hoàng Bổn cảnh, vừa thờ phụng thần Nam Hải nên được gọi tên ghép là đình - vạn Phước Lộc”.
Lễ hội Cầu ngư tại đình - vạn Phước Lộc. Ảnh: Tư liệu
Những câu đối còn lưu truyền nhằm nhắn nhủ cho lớp hậu sinh về niềm tự hào của mảnh đất mà người xưa tạo dựng:“Phúc địa khánh bình thành trừng trạm ân ba hàm lại/ Lộc thiên thân truy viễn trung hưng miếu vũ tân quang” (ở điện thờ thần Nam Hải) hay câu“Phúc chỉ tài bồi nhân phú lạc/ Lộc đường phát dục địa linh chung” (ở điện thờ Thành hoàng Bổn cảnh)…
Trước đây, đời sống ngư dân dù nhiều khó khăn, phương tiện ghe thuyền, ngư lưới cụ khai thác hải sản còn thô sơ nhưng tình cảm gắn bó trong sinh hoạt “trên bến dưới thuyền”, “tình làng nghĩa xóm” bởi đạo lý nhân nghĩa sâu nặng. Niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên của biển cả mà nơi ký thác và chịu ơn qua biểu trưng lăng vạn thờ phụng ngọc cốt linh thần và công lao mở đất của tiền bối.
Do kinh phí đầu tư chủ yếu dựa vào cộng đồng đóng góp xây dựng cơ sở thờ phụng, lễ hội hàng năm và trùng tu một số hạng mục thiết yếu để sinh hoạt, hội hè còn thấp nên chưa đáp ứng được quy mô quần thể kiến trúc phù hợp, xứng tầm với một di tích lịch sử văn hóa đặc biệt này. Các kỳ lễ hội cầu ngư hàng năm dần dần chỉ duy trì được mỗi lễ chính mùa hoặc một vòng thuyền giong cờ ngũ sắc, trống vang chạy quanh hòn đảo nhỏ Thiên Y vào ngày vía Bà (ngày 20/3 âm lịch) để cầu sự may mắn, hiển linh đến với cuộc sống mưu sinh…
Thế mà vẫn tạo nên khí thế rầm rộ, đông vui. Các dinh vạn lân cận cũng bị cuốn hút theo sức sôi động trải dài các xóm chài từ Hồ Tôm (Phước Lộc) đến làng Tân Long, ngảnh Tam Tân, Ba Đăng, Kê Gà trên 20 km bờ biển. Nhưng một thực tế, đến thời kỳ làng biển thay đổi theo sự tác động đô thị hóa, nguồn hải sản hạn chế đòi hỏi ghe thuyền công suất lớn, các loài đặc sản cá nục, bạc má, thu, bẹ, đỏ dạ… như biến mất, đương nhiên có phần chi phối không nhỏ đến đời sống kinh tế và khả năng đóng góp cho sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa dân gian của người dân ở đây. Tuy vậy, trong tâm thức tín ngưỡng của người dân địa phương vẫn gắn bó với ngôi đình - vạn, coi như mái nhà chung linh thiêng.
Từ lúc có quyết định của Bộ VHTT-DL xếp hạng Di tích đình - vạn Phước Lộc năm 2012, như một tín hiệu mới khi có đề cập đến giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Nhưng phải như thế nào, lại loanh quanh ở vấn đề đặt ra đối với vai trò trách nhiệm trực tiếp của Ban Quản lý di tích là những người được ngư dân chọn lựa, tín nhiệm. Với quy mô một di sản văn hóa có quá trình bảo lưu đáng trân trọng, cần thiết một phương án phục dựng, khoa học và khai thác giá trị độc đáo đúng mức với một thiết chế văn hóa tín ngưỡng của di tích cho tham quan du lịch.
Ngành bảo tàng Bình Thuận trước đây cũng đề xuất giải pháp phục dựng bộ xương cá Ông (Ông Đại) và sắp xếp lại những bộ ngọc cốt hiện có đã được gìn giữ như báu vật mà người dân vùng biển kỳ vọng. Từ nhiều năm, các gian thờ phụng Linh thần, Đình thờ Thành hoàng, gian thờ Tiền hiền Hậu hiền gần như khép cửa thường xuyên và một khuôn viên rộng nhưng cảnh quan xơ xác nằm giữa khu phố thị, bến cảng, trường học rộn ràng, đông đúc.
Đình - vạn Phước Lộc
Các di vật có ý nghĩa tín ngưỡng ở đây, không những tiềm ẩn qua huyền thoại, truyền thuyết mà nghĩ xa hơn còn là cơ sở chứng minh giá trị hệ sinh thái biển của vùng biển địa phương và nói lên vị thế có sức lan tỏa về truyền thống văn hóa của chiều dài lịch sử không những của một làng chài. Đồng thời phù hợp với không gian thờ tự mang ý nghĩa thiêng liêng của văn hóa Việt.
Trong suốt thời gian gần 15 năm, kể từ khi Di tích đình - vạn Phước Lộc trở thành di tích cấp quốc gia, cơ sở pháp lý chỉ đặt nặng vấn đề bảo vệ, kế thừa, gìn giữ cho Ban Quản lý di tích và chính quyền địa phương… Nhưng với chức năng phát huy giá trị văn hóa dân gian, các công trình xây dựng, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho cộng đồng thì qua thực tế vẫn còn là một khoảng trống. Với khả năng tài chính của một tổ chức quần chúng tự nguyện, chủ yếu ở ngư dân địa phương thì khó mà đáp ứng được.
Phan Chính .