Theo Cục Thống kê, trong 9 tháng năm 2025, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đạt gần 847 triệu USD, tăng gấp 4,5 lần cùng kỳ năm trước, tập trung ở chế biến thực phẩm, logistics và dịch vụ số. “Đây là tín hiệu cho thấy doanh nghiệp Việt không chỉ xuất khẩu hàng hóa mà đang xuất khẩu năng lực sản xuất, quản trị và sáng tạo”, ông Phùng Quốc Mẫn, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Thủ công mỹ nghệ TPHCM (HAWA), nhận định.
Tập đoàn Stavian là ví dụ điển hình với 30 chi nhánh tại hơn 100 quốc gia, doanh thu năm 2024 đạt hơn 3 tỷ USD. Doanh nghiệp triển khai mô hình “hoán đổi hàng hóa” – nhập nguyên liệu, xuất ngược thành phẩm, tạo dòng thương mại hai chiều ổn định. “Mục tiêu của chúng tôi không chỉ là tìm đầu ra mà là khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Nguyễn Minh Tú, Phó Chủ tịch Tập đoàn Stavian, chia sẻ.
Tương tự, Công ty Ống đồng Toàn Phát hiện xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia với doanh thu 3.500 tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, doanh nghiệp từng mất thị phần tại Ấn Độ do vướng điều tra chống trợ cấp. “Nếu có cơ chế tín dụng ưu đãi và hỗ trợ pháp lý xuyên biên giới, doanh nghiệp Việt sẽ tự tin hơn khi mở rộng thị trường”, bà Bùi Hồng Anh, Giám đốc điều hành Công ty Ống đồng Toàn Phát, đề xuất.
Nhiều chuyên gia và doanh nghiệp tham dự hội nghị
Cùng xu hướng, nhiều “ông lớn” công nghệ và dịch vụ như FPT, Viettel, VinFast, Vinamilk, TH True Milk cũng đang mở rộng đầu tư toàn cầu. Riêng FPT đã hiện diện tại 30 quốc gia; Viettel có mặt ở 10 nước với hơn 140 triệu khách hàng.
Nhiều ý kiến của các doanh nghiệp tham dự hội nghị cũng chỉ rõ, rào cản lớn nhất hiện nay không nằm ở năng lực doanh nghiệp, mà ở thể chế hỗ trợ. Cơ chế tín dụng đầu tư quốc tế còn hạn chế, thủ tục bảo lãnh và chuyển vốn phức tạp, dữ liệu thị trường thiếu thống nhất.
Ông Nguyễn Minh Tú cho rằng, Việt Nam cần chọn ngành hàng chủ lực và xác định doanh nghiệp đầu tàu để kéo cả hệ sinh thái vệ tinh cùng phát triển. Bên cạnh đó, cần xây dựng quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài, kết hợp mạng lưới nghiên cứu thị trường quốc gia giúp doanh nghiệp giảm rủi ro.
Ở lĩnh vực dệt may, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam, nhận xét nhiều doanh nghiệp đủ năng lực mở nhà máy ở thị trường mới nhưng thiếu thông tin về thuế, lao động và văn hóa kinh doanh. “Nếu có cơ chế chia sẻ dữ liệu thống nhất từ các Thương vụ, doanh nghiệp sẽ tự tin hơn trong đầu tư, đặc biệt khi chuyển từ gia công sang xây dựng thương hiệu”, ông Trương Văn Cẩm nói.
Đại diện Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), ông Phạm Hải Phong bổ sung: “Muốn ra biển lớn, doanh nghiệp Việt cần có người dẫn đường. Nếu Nhà nước chọn đúng vài doanh nghiệp đầu kéo, chính sách chuỗi sẽ kích hoạt cả hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ”.
Trước thực tế đó, bà Mai Thu Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Công thương, cho biết Bộ đang triển khai Chương trình “Vươn ra thị trường quốc tế” theo Nghị quyết 68, nhằm hình thành lực lượng doanh nghiệp có năng lực toàn cầu, nâng tỷ trọng giá trị gia tăng xuất khẩu khu vực tư nhân lên 55–60%.
Bà Mai Thu Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Công thương phát biểu tại hội nghị
Kết luận hội nghị, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, nhấn mạnh: “Điều quan trọng không phải bao nhiêu doanh nghiệp đi ra nước ngoài, mà là có một hệ thống đủ mạnh để họ không đi một mình. Khi chính sách, dữ liệu và tín dụng được phối hợp nhịp nhàng, làn sóng đầu tư ra nước ngoài của khu vực tư nhân Việt Nam sẽ chuyển từ rải rác sang có tổ chức”.
ÁI VÂN