Vợ chồng nghệ nhân Hoàng Văn Cung phối hợp nhịp nhàng trong công việc
Người vợ tảo tần bên bếp lò đỏ lửa
Trong xưởng rèn nhỏ nằm cạnh đường làng Đa Sỹ, hình ảnh ông Cung quai búa, bà Hà miệt mài mài dao đã trở nên thân thuộc với hàng xóm và khách hàng. Nhịp làm việc ăn khớp đến mức tưởng như hai ông bà đang cùng nhau chơi một bản hòa tấu bằng sắt thép và lửa than.
Sinh ra ở một làng khác, nhưng cơ duyên làm dâu ở làng nghề Đa Sỹ đã đưa bà Hà đến với nghiệp rèn. Ban đầu, chỉ là phụ những việc lặt vặt: nhóm lò, đưa phôi, dọn dẹp… rồi dần dà, bà quen tay với từng công đoạn nặng nhọc.
"Tôi phụ việc cho ông ấy, từ những công việc đơn giản cho đến lúc quai búa, tôi cũng đảm trách cùng chồng. Ngày mưa cũng như ngày nắng, chỉ khi nào mệt quá mới nghỉ. Vợ chồng đồng cam cộng khổ thì hạnh phúc mới bền lâu", bà Hà chia sẻ.
Với nghệ nhân Hoàng Văn Cung, ông theo cha học nghề rèn từ năm 12 tuổi. Hơn 50 năm gắn bó, ông không chỉ trở thành một người thợ rèn giỏi, mà còn là "người giữ lửa" truyền lại kinh nghiệm quý báu cho thế hệ sau.
"Làm nghề rèn phải kiên nhẫn, phải biết nghe tiếng thép kêu, biết nhìn lửa trong lò. Có như vậy, sản phẩm mới sắc bén, bền chắc, giữ được hồn thủ công mà máy móc không thể thay thế", ông Cung chia sẻ.
Truyền nghề – giữ nghiệp cha ông
Làng Đa Sỹ có lịch sử rèn từ thế kỷ XIII, khi hai cụ Nguyễn Thuật và Nguyễn Thuần từ Thanh Hóa ra truyền dạy nghề. Ban đầu, người làng chủ yếu rèn nông cụ và vũ khí, dần dần chuyển sang dao kéo và nhiều dụng cụ gia dụng khác. Các sản phẩm không chỉ tiêu thụ khắp các tỉnh trong nước mà còn xuất khẩu sang Lào, Campuchia và châu Âu.
Gia đình nghệ nhân Hoàng Văn Cung có ba thế hệ làm nghề. Ông theo cha học nghề từ năm 12 tuổi. Những kỹ năng, bí quyết nung thép, tôi dao… đều được ông tích lũy rồi truyền lại cho con cháu.
"Sản phẩm thủ công có độ tinh xảo, sắc bén, bền chắc mà máy móc không thể thay thế. Nghề này vừa là kế sinh nhai, vừa là một phần tinh hoa văn hóa của quê hương, nên chúng tôi phải giữ bằng được", ông Cung khẳng định.
Cũng theo ông Cung, giữ nghề truyền thống trong bối cảnh hiện nay không dễ. Dao kéo công nghiệp rẻ và sản xuất hàng loạt, khiến nghề rèn thủ công chịu nhiều cạnh tranh. Người thợ phải làm ra sản phẩm có chất lượng vượt trội, đồng thời tìm đầu ra ổn định. Một số gia đình đã thành lập công ty, mở rộng sản xuất, gắn kết tiêu thụ với các thị trường trong và ngoài nước.
Nghệ nhân Hoàng Văn Cung tỉ mẩn từng nhát búa để có sản phẩm ưng ý nhất
Trong thách thức ấy, hình ảnh những người phụ nữ làng nghề lại càng quan trọng. Không chỉ giúp chồng làm nghề, họ còn là hậu phương chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái. Nhiều người, như bà Hà, còn trực tiếp tham gia sản xuất, mài sắc từng lưỡi dao, từng chiếc kéo, để mỗi sản phẩm mang dấu ấn thủ công truyền thống.
"Cái nghề này đâu chỉ có đàn ông. Đàn bà chúng tôi cũng quen lửa, quen búa, quen sắt thép từ lâu. Nghề có còn là nhờ cả hai cùng chung tay giữ lấy", bà Hà nói. Câu chuyện giản dị ấy chính là lời khẳng định cho sự bền bỉ của làng nghề, nơi mỗi gia đình vừa là một xưởng nhỏ, vừa là một tế bào gìn giữ truyền thống của cha ông.
Ngày nay, khi đô thị hóa lan tới từng góc làng, nhiều nghề truyền thống đã mai một. Nhưng ở Đa Sỹ, tiếng búa vẫn vang, lửa lò vẫn đỏ, dao kéo vẫn sắc bén như thuở nào. Trong đó, công lao của những người thợ như nghệ nhân Hoàng Văn Cung, đặc biệt là những người vợ như bà Hoàng Thị Hà, là không thể phủ nhận.
Họ vừa là bạn đời, vừa là đồng nghiệp, vừa là người bạn tri kỷ trên hành trình giữ lửa nghề cha ông. Nhờ những đôi bàn tay chai sần, nhờ sự đồng cam cộng khổ, nghề rèn Đa Sỹ không chỉ tồn tại mà còn phát triển, có chỗ đứng trên thị trường.
"Chúng tôi làm nghề không chỉ để mưu sinh, mà còn để con cháu biết cha ông đã sống và lao động thế nào. Còn nghề là còn làng và hiện nay con trai đầu của chúng tôi cũng theo nghề của bố mẹ", nghệ nhân Hoàng Văn Cung tâm sự.
Câu chuyện về vợ chồng ông Cung - bà Hà, vì thế, không chỉ là câu chuyện của một gia đình, mà còn là hình ảnh thu nhỏ của cả một làng nghề trăm năm tuổi, nơi mỗi tiếng búa, mỗi ngọn lửa lò đều thắp sáng niềm tự hào và trách nhiệm gìn giữ di sản văn hóa cha ông.
Trường Lê