Quang cảnh Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN. Ảnh: TTXVN phát
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 46 và các hội nghị cấp cao liên quan do Malaysia tổ chức thành công đã góp phần củng cố sức mạnh tổng hợp của khu vực và liên khu vực, qua đó giúp ASEAN tăng cường khả năng phục hồi trước những thách thức và bất ổn toàn cầu.
Theo Tiến sĩ Noor Azuan Abu Osman, Phó hiệu trưởng trường Đại học Malaya và là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Malaysia, giáo dục đại học, hoạt động nghiên cứu cũng như đào tạo nguồn nhân lực thế hệ mới đang đóng vai trò then chốt trong việc ứng phó với những rủi ro mới.
Trong năm Chủ tịch ASEAN, Thủ tướng Dato' Seri Anwar Ibrahim đã đưa ra nhiều chính sách và tầm nhìn hướng tới tương lai, từ việc tăng cường quan hệ với Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC), cho đến việc mở rộng ảnh hưởng của Hiệp hội trong các vấn đề toàn cầu đã tạo ra nền tảng chiến lược để triển khai Tuyên bố Kuala Lumpur 2045.
Bối cảnh nhân khẩu học
Độ tuổi trung bình ở ASEAN dao động trong khoảng 30 tuổi, trong đó có khoảng 30-35% nằm trong độ tuổi từ 15-35 và tạo ra nguồn lực đáng kể để phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục và nghiên cứu. Trong giai đoạn từ 2014-2023, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của ASEAN tăng trưởng trung bình hàng năm là 4,0%, cho thấy ASEAN có tiềm năng phục hồi trước những thách thức toàn cầu và các chính sách giáo dục có vai trò quan trọng để tận dụng quỹ đạo tăng trưởng này thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao mới để hỗ trợ quá trình chuyển đổi kinh tế của khu vực và giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài.
Một hệ thống giáo dục đại học được phát triển tốt trên toàn khu vực sẽ giải quyết được các thách thức về khoảng cách địa lý, tính toàn diện sẽ giúp tạo ra một khu vực bền vững hơn để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và hỗ trợ tiến trình chuyển đổi kinh tế, phù hợp với chủ đề trọng tâm của ASEAN năm nay là tăng cường củng cố nội khối. Điều này sẽ giúp thúc đẩy đổi mới và chuyển đổi kinh tế, giải quyết tình trạng mất cân bằng kinh tế xã hội, đồng thời khắc phục bẫy thu nhập trung bình của ASEAN, cũng như cải thiện trình độ, kỹ năng cho người lao động.
Các quốc gia thành viên ASEAN cần dự báo tiến triển chất lượng giáo dục dài hạn. Đây là biện pháp mà Malaysia đã thực hiện thành công khi triển khai đồng bộ cả việc xây dựng cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực cần thiết. Mô hình mới về giáo dục đại học toàn cầu hóa, song vẫn dựa trên bối cảnh và bối cảnh văn hóa khu vực của mỗi nước sẽ tận dụng lợi thế nhân khẩu học cho từng thành viên ASEAN.
Cơ hội chiến lược
Trong các lĩnh vực mới nổi của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi năng lượng, chỉ các nỗ lực riêng từ chính phủ là không đủ để triển khai tiến trình hướng tới việc tạo ra một cộng đồng bền vững dựa trên công nghệ cao, hệ sinh thái thương mại, thị trường và chuỗi cung ứng ổn định. Theo đó, các nhà giáo dục, nhà nghiên cứu, chuyên gia trong ngành và các tổ chức xã hội dân sự giữ vai trò rất quan trọng trong việc dự báo sự thay đổi của khu vực.
Nền kinh tế số của ASEAN dự kiến sẽ đạt 1 nghìn tỷ USD vào năm 2030 nhờ sự phát triển của các lĩnh vực thương mại điện tử, công nghệ tài chính và hệ sinh thái khởi nghiệp. Do đó, các trường đại học trong khu vực phải tận dụng thời cơ này để cải thiện chương trình giảng dạy, xây dựng các trung tâm đổi mới để kết nối sinh viên với các trung tâm khởi nghiệp, trung tâm nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) và an ninh mạng để đáp ứng nhu cầu của ngành.
Trong lĩnh vực chuyển đổi năng lượng, nhu cầu năng lượng của ASEAN dự kiến sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2050, trong đó để đạt được mục tiêu năng lượng tái tạo chiếm 23% tổng công suất vào năm 2025, khu vực này cần đầu tư ước tính 27 tỷ USD mỗi năm.
Những mục tiêu này cũng đòi hỏi cần có các chương trình nghiên cứu đa ngành về hệ sinh thái liên quan đến năng lượng bao gồm lưu trữ, tích hợp lưới điện và vật liệu bền vững, cũng như sự hợp tác chiến lược với ngành công nghiệp thông qua quan hệ đối tác công tư để triển khai thí điểm các dự án năng lượng tái tạo.
ASEAN đã có quan hệ đối tác giáo dục đại học khu vực, bao gồm Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN) để giúp xây dựng các chương trình học và cấp tín chỉ chung, song không nên chỉ dừng lại tại đây. ASEAN cần thúc đẩy hơn nữa hợp tác xuyên biên giới, xuyên lục địa như quan hệ đối tác ASEAN với Liên minh châu Âu (EU), Mỹ Latinh nhằm để bổ sung về kiến thức chuyên môn và nguồn nhân lực cho khu vực.
Các dự án có thể nghiên cứu gồm AI và các công nghệ mới nổi nhằm đảm bảo sinh viên tốt nghiệp trong khu vực ASEAN có khả năng cạnh tranh ở cấp độ cao nhất, đồng thời củng cố vị thế của giới nghiên cứu, học thuật của ASEAN trên trường quốc tế.
Hiện nay, trung bình mỗi quốc gia ASEAN phân bổ 1,5% GDP cho nghiên cứu và phát triển, thấp hơn nhiều so với mức 2,8% của các nước Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Bên cạnh đó, mặc dù tỷ lệ ấn phẩm nghiên cứu toàn cầu của ASEAN đã tăng từ 5% vào năm 2010 lên khoảng 10% vào năm 2024, song số trích dẫn theo khu vực trên mỗi tờ báo vẫn ở mức thấp hơn so với toàn cầu.
Với 234 triệu công dân trong độ tuổi từ 15-35, ASEAN sẽ được hưởng lợi thế từ nhân khẩu học, song lợi thế này chỉ có thể được phát huy hiệu quả thông qua nền chất lượng giáo dục phù hợp với thị trường và mục tiêu của ngành.
Các lĩnh vực như thương mại điện tử, tài chính số và năng lượng sạch dự kiến sẽ tạo ra hơn 10 triệu việc làm mới vào năm 2030 và điều này mở ra cơ hội hợp tác mới cho các trường đại học và viện nghiên cứu trong khu vực.
Cuối cùng, Giáo sư Noor Azuan kết luận, với tổng dân số lên tới 700 triệu người, có độ tuổi trung bình trẻ và tăng trưởng GDP tích cực, các trường đại học, viện nghiên cứu trong khu vực cần tăng cường hợp tác để cung cấp các dự báo, tình hình và giải pháp mang tính toàn diện, qua đó tận dụng hiệu quả cơ hội to lớn này để định hình tương lai của thế hệ nguồn nhân lực mới.
Thành Trung/BNEWS/vnanet.vn