Bảo vệ chính quyền non trẻ
Trong kháng chiến chống Pháp, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hay còn gọi là miền Tây Nam Bộ được chia làm hai chiến khu: Chiến khu 8 và Chiến khu 9. Những năm đầu khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, nơi đây là chiến trường gian khổ, ác liệt, nhiều cuộc chiến đấu giằng co giữa ta và địch liên tục diễn ra. Ngoài lực lượng tại chỗ, còn có sự bổ sung của những chiến sĩ cộng sản ưu tú từ nhà tù Côn Đảo về, góp phần hình thành lực lượng quân sự và những đơn vị chủ lực đầu tiên chống lại âm mưu xâm lược của địch.
Cách mạng Tháng Tám 1945 là sự kiện chính trị trọng đại của dân tộc Việt Nam, đưa một nước thuộc địa nửa phong kiến thành nước độc lập, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Nhưng sau khi cách mạng thành công, nước ta phải đứng trước những tình thế hết sức khó khăn, các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực bên ngoài hòng bóp nghẹt chính quyền non trẻ từ trong trứng nước; chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân thông đồng với nhau trở lại cai trị đất nước ta lần thứ hai.
"Địa ngục trần gian" Côn Đảo - nơi giam giữ những chiến sĩ cộng sản.
Trong thời điểm đó, tại miền Nam diễn ra hội nghị đặc biệt giữa Xứ ủy Nam Bộ và Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ ngày 18-8-1945. Hội nghị bàn nhiều vấn đề của cách mạng miền Nam, nhằm ổn định tình hình, bảo vệ chính quyền non trẻ, trong đó có quyết định vô cùng quan trọng là phải đón những chiến sĩ cộng sản bị địch biệt giam tại nhà tù Côn Đảo về đất liền để bổ sung lực lượng, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của phong trào cách mạng.
Sau hội nghị, mọi công tác chuẩn bị đều được gấp rút tiến hành, chạy đua với thời gian từ chuẩn bị lực lượng, sửa chữa phương tiện, thuê mượn tàu ghe, vận động thủy thủ, xác định đường đi… với rất nhiều gian nan, thử thách.
Hành trình vượt biển
Sáng 16-9-1945, tàu Phú Quốc và 32 chiếc ghe với khoảng 200 thủy thủ xuất phát từ cửa biển Trần Đề thẳng hướng ra Côn Đảo. Sau khoảng 5 giờ lênh đênh trên biển, phải đương đầu với sóng to, gió lớn, các ghe đều phải cuốn buồm, thả trôi theo lượn sóng, hướng gió. Người thì say sóng nằm mê man; người khỏe hơn nằm tát nước, cầm cự để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ.
Tàu ông Lý Văn Chương đi đầu bị sóng đánh nghiêng ngả, lái tàu đề nghị quay đầu xuôi sóng trở vào bờ, khi nào hết gió sẽ trở ra biển nhưng ông cương quyết không chấp nhận đề xuất đó. Theo ông, tàu chỉ huy mà quay vào bờ thì tất cả sẽ nản chí, dao động. Cả đoàn chịu đựng sóng to, gió lớn gần 3 giờ sau thì biển lặng, nhưng 7 chiếc ghe đã bị trôi dạt phải quay lại Cồn Nóc, sau đó 3 ngày mới đến được Côn Đảo.
Nhà tù Côn Đảo - nơi giam giữ những chiến sĩ cộng sản.
Khách tham quan tìm hiểu về "Địa ngục trần gian" Côn Đảo.
Với nhiệt huyết và trách nhiệm đối với Tổ quốc, rạng sáng 17-9, ông Chương đã dẫn được đoàn ghe lần lượt cặp bãi Cỏ Ống (Côn Đảo) và đến sáng 23-9-1945, chiếc tàu Phú Quốc cùng 23 ghe tàu chở hơn 1.800 người tù chính trị đã lần lượt cập bến Đại Ngãi trong sự hân hoan, hò reo của nhân dân như đón những người thân đi xa trở về đoàn tụ.
Có một điều đặc biệt là đồng chí Tôn Đức Thắng không đi trên những chiếc ghe này. Lý do là ông muốn nhường chỗ để càng nhiều người được về đất liền càng tốt. Ông lấy sơn vẽ lên chiếc ca nô nhỏ đã cũ vừa sửa chữa xong hai chữ “Giải phóng”, sau đó tự cầm lái, chạy theo đoàn về đất liền. Hành động và nghĩa cử cao thượng đã nói lên lòng nhân hậu, ý chí kiên cường của một nhân cách lớn, người anh hùng sau này trở thành Chủ tịch nước.
Tiếp thêm ý chí, niềm tin cho phong trào cách mạng
Một sự trùng hợp đặc biệt là, ngày 23-9-1945, các chiến sĩ cộng sản từ Côn Đảo trở về đất liền cũng chính là ngày thực dân Pháp núp bóng quân đồng minh trở lại xâm lược nước ta lần hai, nhân dân Sài Gòn và sau đó là nhân dân Nam Bộ lại đứng lên chống Pháp. Niềm vui hít thở bầu không khí tự do, độc lập chưa lâu, chưa được nghỉ ngơi và chưa kịp đoàn tụ gia đình, các chiến sĩ cộng sản tiếp tục bước vào một cuộc chiến đấu mới được dự báo là sẽ rất lâu dài, gian khổ và khốc liệt…
Thời điểm này, tình hình tại Nam Bộ nói chung cũng như tại ĐBSCL nói riêng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, phức tạp… đặt ra cho Nam Bộ cũng như Khu 8 và Khu 9 hàng loạt những vấn đề cần giải quyết. Trong lúc cách mạng gặp nhiều khó khăn, các chiến sĩ cộng sản từ nhà tù Côn Đảo trở về đã kịp thời bổ sung cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cho các tỉnh. Nhiều đồng chí có kiến thức về quân sự được giao nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị vũ trang của một số tỉnh và đơn vị tập trung của Khu.
Tinh thần và bản lĩnh của các chiến sĩ cộng sản được tôi rèn nơi “địa ngục trần gian” Côn Đảo vừa trở về như đã tiếp thêm ý chí, niềm tin cho phong trào cách mạng ở Nam Bộ và ĐBSCL trong lúc khó khăn nhất.
Một góc "Địa ngục trần gian" Côn Đảo.
Ngày 15-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ vừa được bổ sung các đồng chí nòng cốt từ Côn Đảo về đã triệu tập cuộc họp ở Mỹ Tho để bàn chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”. Hội nghị này cũng đã chỉ định một số Bí thư Tỉnh ủy và quyết định thống nhất các Tỉnh ủy ở những nơi còn hai bộ phận và hai nhóm của Mặt trận Việt Minh. Việc thống nhất các mặt trận và tổ chức Đảng đã củng cố, tăng cường sự lãnh đạo đối với LLVT ngay sau khi cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai bắt đầu ở miền Tây Nam Bộ.
Cuối tháng 12-1945, Liên Tỉnh ủy miền Tây triệu tập hội nghị mở rộng tại Ô Môn (Cần Thơ). Hội nghị kiểm điểm tình hình quân sự và LLVT của miền Tây, thông báo quyết định thành lập chiến khu và danh sách các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến khu. Chiến khu 8 do đồng chí Đào Văn Trường là cán bộ Trung ương đưa về làm Khu bộ trưởng, đồng chí Võ Sĩ, cán bộ tù chính trị từ Côn Đảo về làm Chính trị Bộ Chủ nhiệm. Chiến khu 9 do đồng chí Vũ Đức (Hoàng Đình Dong) là cán bộ quân sự từ Trung ương vào làm Khu bộ trưởng, đồng chí Phan Trọng Tuệ là cán bộ từ Côn Đảo về làm Chính trị Bộ Chủ nhiệm.
Hội nghị cũng chủ trương đưa một bộ phận LLVT các tỉnh lên chi viện cho Cần Thơ bao vây đánh địch. Các địa phương chưa bị địch chiếm đóng đều tích cực xây dựng LLVT chuẩn bị kháng chiến lâu dài; các công xưởng sản xuất vũ khí thô sơ, cải tiến, sửa chữa súng đạn hư hỏng… tất cả đều nhằm ngăn cản bước tiến của địch, bảo vệ thành quả cách mạng.
Hằng năm, nhà tù Côn Đảo đón rất nhiều du khách về tham quan, tìm hiểu.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai kéo dài suốt 9 năm và giành thắng lợi hoàn toàn bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những người tù cộng sản được cách mạng đón từ Côn Đảo về đất liền luôn thể hiện được bản lĩnh, tài thao lược của Đảng ta từ Trung ương Cục Miền Nam đến Xứ ủy Nam Bộ và Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ, luôn vững vàng trước những hiểm nguy, đặc biệt là lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Những đồng chí đó đã đi qua 2 cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc như những anh hùng và dần trở thành những người lãnh đạo tài ba, chèo lái con thuyền cách mạng đất nước, vượt qua ghềnh thác, chông gai. Nhiều người đã giữ vị trí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước như Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Tổng Bí thư Lê Duẩn, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng…
Những con tàu chở những chiến sĩ cách mạng từ Côn Đảo về đất liền đến nay đã tròn 80 năm. Cùng với Cách mạng Tháng Tám, sự kiện này mãi mãi đi vào lịch sử như bản hùng ca bất diệt để lại cho muôn đời sau về một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta trong thế kỷ XX.
QUANG ĐỨC