Đồng bằng Sông Cửu Long đang trở thành vùng có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất cả nước, đồng thời đối mặt tình trạng mức sinh thấp, di cư mạnh và thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ.
Chuyên gia cảnh báo, tình trạng 'già hóa kép' này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển bền vững của vùng.
Già hóa dân số nhanh nhất cả nước
Theo ThS. Lương Ngọc Thúy – Viện Xã hội học và Tâm lý học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng có mức độ già hóa cao nhất cả nước.
Trong giai đoạn 2009–2019, dân số vùng gần như không tăng (từ 17,2 lên 17,3 triệu người), trong khi tỷ trọng dân số của vùng trong tổng dân số cả nước lại giảm dần. Tốc độ tăng dân số trung bình chỉ đạt 0,1%/năm – thấp hơn rất nhiều so với mức 1,1% của cả nước.
Cùng với đó, tăng trưởng dân số tự nhiên của vùng chỉ đạt 8,2% trong giai đoạn 2008–2018, thấp nhất cả nước do tỷ lệ sinh thô thấp và tỷ lệ chết thô cao. Nhóm người từ 65 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn ĐBSCL tăng nhanh từ 6,16% năm 2009 lên 9,23% năm 2021.
ĐBSCL đang có mức độ già hóa dân số cao. Ảnh Thành Nguyễn
Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 cho thấy, ĐBSCL nằm trong hai vùng có tỷ lệ chết thô cao nhất cả nước (6,8‰ so với 5,6‰ toàn quốc).
Trong khi đó, người trẻ tiếp tục rời quê đi làm ăn xa, khiến vùng rơi vào tình trạng già hóa nhanh nhưng thiếu nguồn lực trẻ.
Chỉ số già hóa dân số của ĐBSCL tăng mạnh qua các năm: từ 45,4% năm 2014 lên 58,5% năm 2019 và đạt tới 76,8% vào năm 2024. Chỉ số này cao hơn nhiều so với mức trung bình cả nước (60,2%) và cao hơn cả Đồng bằng sông Hồng (70,6%).
Với tốc độ này, ĐBSCL sẽ nhanh chóng mất đi trạng thái "dân số vàng", tức là giai đoạn mà tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao nhất, mang lại lợi thế cho phát triển kinh tế.
Việc mất đi lợi thế này sớm hơn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiềm năng tăng trưởng của vùng. Đồng thời tạo ra áp lực lớn lên hệ thống y tế, an sinh xã hội và nguồn nhân lực của vùng.
Mức sinh thấp và di cư khiến nguồn nhân lực trẻ suy giảm
Theo các chuyên gia, mức sinh thấp kéo dài và dòng di cư mạnh là nguyên nhân chính khiến ĐBSCL già hóa nhanh hơn các vùng khác. Tốc độ tăng dân số thấp nhất cả nước (0,1%/năm) phản ánh sự sụt giảm đáng kể lực lượng lao động trẻ.
Trong 10 năm qua, hơn 1,1 triệu người rời khỏi ĐBSCL, chủ yếu là thanh niên và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Số liệu năm 2024 cho thấy tỷ suất xuất cư ở mức 5,2‰, còn tỷ suất di cư thuần là âm 3,8‰ - cao nhất cả nước.
Làn sóng di cư này không chỉ làm giảm nguồn lao động mà còn kéo theo hệ lụy mất cân bằng giới tính, giảm số phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sinh. Nếu xu hướng này tiếp diễn, dân số ĐBSCL có thể giảm xuống dưới 17 triệu người vào năm 2030.
Theo các nghiên cứu của VCCI và Đại học Fulbright Việt Nam, tình trạng di cư phản ánh thực tế rằng kinh tế vùng ĐBSCL đang suy giảm sức hấp dẫn, khiến lao động trẻ tìm đến các trung tâm công nghiệp như TP.HCM và Đông Nam Bộ.
Chất lượng sống của người cao tuổi khó đảm bảo khi tốc độ già hóa quá nhanh. Ảnh TL
Chuyên gia cho rằng, già hóa dân số không chỉ là vấn đề nhân khẩu học mà còn tác động sâu sắc đến tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Tỷ lệ phụ thuộc người già ở Việt Nam dự kiến tăng gấp đôi từ 0,11 năm 2019 lên 0,22 vào năm 2039. Riêng khu vực nông thôn ĐBSCL, tỷ lệ này đã tăng từ 8,8% năm 2009 lên 14,4% năm 2019.
Điều này đồng nghĩa với việc mỗi người trong độ tuổi lao động phải gánh vác nhiều hơn cho người già và trẻ nhỏ, trong khi thu nhập và năng suất lao động của vùng lại thấp. Ước tính chi phí phục vụ dân số già có thể chiếm tới 4,6% GDP trong các thập niên tới.
Mặt khác, mô hình chăm sóc người cao tuổi truyền thống dựa vào gia đình đang dần suy yếu. Khảo sát cho thấy có tới 37,2% bị con cháu nói nặng lời là một dấu hiệu đáng báo động về sự căng thẳng trong các mối quan hệ gia đình. Nhiều cụ già ở nông thôn sống cô đơn, thiếu chăm sóc y tế định kỳ, dễ tổn thương tinh thần.
Sự suy yếu của mô hình chăm sóc truyền thống kết hợp với hệ thống an sinh xã hội chưa đủ mạnh tạo ra một khoảng trống lớn trong việc đảm bảo chất lượng sống cho người cao tuổi.
Đáng chú ý là tình trạng “nữ hóa dân số cao tuổi”. Tỷ số giới tính trong nhóm 80 tuổi trở lên tăng mạnh, đạt 170 cụ bà/100 cụ ông, phản ánh tuổi thọ nữ giới cao hơn nhiều so với nam. Điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ phụ nữ cao tuổi sống góa, đơn thân hoặc ly thân tăng, kéo theo rủi ro cao về thu nhập và sức khỏe.
Khảo sát tại một số tỉnh ĐBSCL cho thấy chỉ 9,2% người cao tuổi tự đánh giá có sức khỏe tốt, trong khi hơn 34% cho biết sức khỏe yếu. Nhiều người mắc bệnh mạn tính, trong đó hơn 50% mắc từ hai bệnh trở lên.
Về thu nhập, người cao tuổi trong vùng có mức bình quân chỉ khoảng 3,4 triệu đồng/tháng, thấp hơn mức trung bình cả nước. 40% nguồn thu nhập đến từ con cháu hỗ trợ, 38,2% từ buôn bán nhỏ, 17,1% từ lương hưu và chỉ 13,5% từ trợ cấp nhà nước.
Điều này cho thấy phần lớn người cao tuổi ở ĐBSCL vẫn phụ thuộc nhiều vào gia đình và đối mặt với nguy cơ thiếu hụt an sinh khi hệ thống bảo hiểm xã hội chưa bao phủ đầy đủ.
Theo ThS. Lương Ngọc Thúy, ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ “vòng xoáy đi xuống về nhân khẩu học” nếu không có giải pháp kịp thời. Già hóa nhanh không chỉ tạo áp lực lớn cho hệ thống y tế, an sinh xã hội, mà còn dẫn tới nguy cơ vòng xoáy đi xuống về nguồn nhân lực, khiến vùng dễ rơi vào “bẫy phát triển” nếu không có giải pháp kịp thời.
Để ứng phó, cần triển khai đồng bộ các chính sách về dân số, lao động và an sinh xã hội, bao gồm: Thúc đẩy giữ chân và thu hút lao động trẻ, cải thiện môi trường đầu tư, mở rộng bảo hiểm xã hội và hệ thống chăm sóc người cao tuổi, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi cho người dân. Tăng cường truyền thông về mức sinh hợp lý, khuyến khích sinh con trong độ tuổi sinh sản, bảo đảm cân bằng dân số và giới tính.
Chỉ khi giải quyết song song cả vấn đề nhân khẩu học và phát triển kinh tế bền vững, ĐBSCL mới có thể bảo đảm được ổn định dân số, duy trì nguồn nhân lực chất lượng và thích ứng thành công với giai đoạn già hóa dân số nhanh trong những thập niên tới.
PV