Cảnh trong phim Cánh đồng hoang. (Ảnh Tư liệu)
Để cùng nhói lòng đong đếm, cái giá của hòa bình đắt đỏ tới mức nào. Tôi gọi đó là “dòng phim chiến tranh của người trẻ”, để phân biệt với những tác phẩm từ dấu mốc năm 2000 đổ về trước, khi cả đối tượng sáng tác lẫn thưởng thức đều ít nhiều có những trải nghiệm với lửa đạn chiến tranh.
Những dấu ấn không thể nào quên
Không phải ngẫu nhiên mà Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần thứ ba (DANAFF III), diễn ra từ 29/6 tới 5/7/2025, muốn công chúng nhìn lại nửa thế kỷ phim Việt Nam về chiến tranh, thông qua 22 tác phẩm nổi bật được gửi gắm trong Chương trình chiếu phim chọn lọc. Cùng với đó là một hội thảo chuyên sâu mang chủ đề Dấu ấn phim chiến tranh của Việt Nam từ sau ngày đất nước thống nhất.
Nửa thế kỷ là một cột mốc đáng nhớ, với độ lùi thời gian đủ để nhìn lại, để nhận định và đánh giá một cách toàn diện về những thành tựu, giá trị cùng vị trí của dòng phim chiến tranh trong sự phát triển của điện ảnh nước nhà nói riêng, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới nói chung. Bởi nửa thế kỷ là đủ thời gian để phân định sắc màu riêng biệt cho từng giai đoạn phát triển của dòng phim Việt vừa là thế mạnh, vừa mang tính đặc thù này.
Trong những tháng ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ gian khổ, phim chiến tranh không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn là những bản hùng ca về lòng yêu nước, tinh thần hy sinh cùng khát vọng độc lập như Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972), Em bé Hà Nội (1974)… Những tác phẩm trong giai đoạn này thường được sản xuất trong điều kiện kinh phí hạn hẹp, kỹ thuật còn đơn sơ nhưng với tinh thần sáng tạo không mệt mỏi và lòng yêu nước sâu sắc, đội ngũ làm phim đã tạo nên những bộ phim đồng hành cùng lịch sử.
Từ thời khắc hòa bình đến năm 1990, không khí hân hoan tạo nên xúc cảm sáng tạo dồi dào cho các nghệ sĩ điện ảnh và tạo đòn bẩy để những bộ phim kinh điển như Cánh đồng hoang (1979), Mẹ vắng nhà (1980) hay Mối tình đầu (1980), Bao giờ cho đến tháng Mười (1984) ra đời. Đặc biệt, tám tập Ván bài lật ngửa (1982-1987) và bốn tập Biệt động Sài Gòn (1985) đã trở thành những mốc son trong lịch sử điện ảnh nước nhà, khi có được những loạt phim (series) đặc biệt thu hút, hấp dẫn và khiến công chúng yêu phim hào hứng xem lại nhiều lần.
Điểm mấu chốt khiến phim về chiến tranh sau năm 2000 mang một màu sắc khác là sự thay đổi góc nhìn của các nhà làm phim. Thay vì mô tả trực diện, tác phẩm đi vào mổ xẻ những bi kịch, cảm xúc trong chiều sâu tâm lý con người phía sau những chiến công vang dội và cả những mất mát hy sinh chẳng thể đong đếm.
Như những làn gió mới
Năm 2005, Bùi Thạc Chuyên và Bùi Tuấn Dũng được gọi là hai đạo diễn thuộc “lớp trẻ”. Họ đều sinh ra trong những năm cuối của cuộc chiến tranh, và được lớn lên trong thời bình. Và họ đều chọn thực hiện hai bộ phim về chiến tranh, được người xem đón nhận nồng nhiệt trong năm đó.
Đường thư (kịch bản: Đoàn Tuấn, đạo diễn Bùi Tuấn Dũng) lần đầu đưa lên màn ảnh câu chuyện không còn nhiều màu sắc đại tự sự. Nhân vật chính là một chàng trai trẻ ôm mộng gia nhập lực lượng đặc công nhưng lại được phân công làm lính quân bưu. Phim có tiết tấu nhanh, mạnh, đậm sắc màu phim hành động trên hành trình làm nhiệm vụ giữa rừng già của cặp đôi bưu tá. Còn Sống trong sợ hãi (kịch bản: Bùi Thạc Chuyên và Nguyễn Thị Minh Ngọc, đạo diễn Bùi Thạc Chuyên) khai thác một bi kịch thời hậu chiến, khi một người lính từng ở phía bên kia chiến tuyến phải vật lộn mưu sinh bằng việc gỡ bom, mìn để bán sắt vụn. Cảm giác bất an, dồn nén đến nghẹt thở, khi bám theo những lần tháo gỡ kíp nổ của anh “lính Cộng hòa” năm xưa đã thể hiện cách tiếp cận rất khác của một đạo diễn trẻ với cùng chủ đề những tác phẩm chọn chiến tranh làm bối cảnh.
Không ngạc nhiên khi Sống trong sợ hãi giành giải Phim hay nhất, hạng mục Tài năng mới châu Á tại Liên hoan phim quốc tế Thượng Hải lần thứ chín, Giải thưởng lớn của Ban Giám khảo tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 51. Với Đường thư, tuy chỉ là bộ phim đầu tay, đã khiến Bùi Tuấn Dũng trở thành một cái tên được công luận đánh giá cao.
Danh sách những đạo diễn trẻ dũng cảm chọn lối đi làm phim chiến tranh kế tiếp còn có Đặng Thái Huyền, Đinh Tuấn Vũ. Người trở về (kịch bản của Nguyễn Thu Dung và Đặng Thái Huyền, dựa theo ý tưởng truyện ngắn Người về bến sông Châu của nhà văn Sương Nguyệt Minh, đạo diễn Đặng Thái Huyền) ra mắt năm 2015 khi Huyền ở tuổi 35. Đinh Tuấn Vũ hoàn thành Truyền thuyết về Quán Tiên năm 2019, lúc anh vừa tròn 30 tuổi. Cả hai bộ phim đều gặt hái nhiều giải vàng, bạc cho phim và cá nhân xuất sắc tại các giải thưởng điện ảnh trong nước.
Nhân vật chính trong Người trở về là một nữ y tá phải đối mặt mỗi ngày với sự phi nhân tính của chiến tranh, phải chứng kiến quá nhiều mất mát trong trạm quân y tiền phương, để rồi chấp nhận mọi thua thiệt trong thời bình bởi “không thể hạnh phúc trên nỗi đau khổ của người khác”. Đây là một góc nhìn đậm đặc tính nữ, làm nên sự khác biệt của bộ phim. Còn Truyền thuyết về Quán Tiên thể hiện một góc nhìn nhân văn xúc động khi tái hiện cuộc sống của ba nữ thanh niên xung phong tại một binh trạm trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, vừa phải chiến đấu với kẻ thù, vừa đối mặt với những khao khát bản năng cùng nhiều giằng xé, day dứt nội tâm.
Cũng phải khá lâu sau tác phẩm chiến tranh đầu tiên, những người trẻ kể trên mới “tái ngộ” đề tài mà mình đã tạo được dấu ấn đậm nét ngay trong lần đầu thử sức. Bùi Tuấn Dũng phải đợi tới tám năm để cho ra đời tác phẩm kế tiếp, Những người viết huyền thoại. Anh chọn tái hiện chân dung Thiếu tướng Đinh Đức Thiện, người góp công lớn làm nên tuyến đường ống xăng dầu Trường Sơn kỳ diệu. Sức hấp dẫn từ một đề tài tưởng như rất đỗi khô khan đã giúp anh nhận về những thành công ấn tượng. Bùi Thạc Chuyên phải chờ tới 20 năm để tiếp nối với Địa đạo-Mặt trời trong bóng tối và “chiếm sóng truyền thông” như một hiện tượng phòng vé suốt khoảng thời gian cả nước cùng kỷ niệm nửa thế kỷ thống nhất vừa qua. Đặng Thái Huyền đang trong những công đoạn cuối cùng để hoàn tất Mưa đỏ, bản hùng ca bi tráng về mùa hè đỏ lửa nơi Thành cổ Quảng Trị.
Từ khóa thành công
Đi sâu vào mổ xẻ những thành công của các tác phẩm khai thác đề tài chiến tranh gần đây, không khó để nhận thấy yếu tố xuyên suốt giữ vai trò quyết định chính là “trẻ”, bao gồm trong cả cách nghĩ lẫn cách làm, cách đón nhận cùng cách nhân rộng, lan tỏa rộng rãi tinh thần dân tộc.
Đào, Phở và Piano là tác phẩm của một đạo diễn không trẻ, do Nhà nước đầu tư kinh phí và thí điểm chiếu rạp, khởi đầu với một phòng chiếu nhỏ tại Trung tâm Chiếu phim quốc gia. Mong muốn của nhà làm phim là tái hiện một Hà Nội hào hoa và kiêu bạc, anh dũng và ấm áp tình người trong 60 ngày đêm khói lửa mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhờ “phát súng ban đầu” - review của một TikToker rất trẻ và được nhiều hội nhóm người trẻ yêu lịch sử chia sẻ, bộ phim tuy còn nhiều điều phải bàn về chất lượng tổng thể vẫn tạo nên một cơn sốt phòng vé ngoài sức tưởng tượng của cả giới chuyên môn lẫn công chúng quan tâm điện ảnh Việt Nam. Những hàng dài bạn trẻ kiên nhẫn chờ mua vé xem phim, những suất chiếu nhanh chóng “cháy vé” đã mang lại doanh thu chưa từng có, 23 tỷ đồng, cho một sản phẩm thuộc dòng phim Nhà nước đặt hàng vốn chỉ được chiếu rạp nhân một dịp lễ, kỷ niệm nào đó.
Quyết định dũng cảm đầu tư toàn bộ kinh phí sản xuất của một nhóm doanh nhân yêu lịch sử là yếu tố then chốt giúp Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối được ra đời và đạt thành công đầy ấn tượng, với 172 tỷ đồng tiền vé, trở thành quán quân trên đường đua “phim về đề tài chiến tranh cách mạng có doanh thu phòng vé cao nhất mọi thời”.
Phim là sự cộng hưởng tinh thần trẻ của toàn bộ đội ngũ làm phim, từ đạo diễn kiêm tác giả kịch bản, nhà sản xuất, dàn diễn viên đến phần âm nhạc rất đáng chú ý; ca khúc chủ đề trong phim do nhạc sĩ Hứa Kim Tuyền sáng tác và Hằng Lamoon thể hiện, họ đều là những cái tên rất được công chúng trẻ hâm mộ. Địa đạo đã thu hút được rất đông người trẻ tới rạp thưởng thức. Dù ban đầu, không ít trong số đó mua vé vì hội chứng FOMO (viết tắt từ cụm từ tiếng Anh: Fear of missing out/sợ bỏ lỡ) nhưng câu chuyện trong phim được kể theo cách gần gũi với tâm lý tiếp nhận của người trẻ hôm nay, không hô hào khẩu hiệu hay minh họa lịch sử khô khan mà chân thực, nhân văn. Cùng với trải nghiệm thị giác mang tầm quốc tế, bộ phim đã chinh phục được nhiều công chúng trẻ, mang lại cho họ những ấn tượng khó quên. Vô số nội dung bình luận giàu cảm xúc trên truyền thông xã hội của người trẻ sau khi xem phim là dẫn chứng thú vị. “Giây phút ra khỏi rạp, nhìn lên bầu trời bình yên sau 50 năm thống nhất, mới nhận ra đó là cái kết thực sự: Chúng ta đang sống và tiếp nối phần đời đẹp nhất mà cha anh còn dang dở”- chia sẻ ngắn của tài khoản rubylam6965 nhanh chóng đạt tới hơn 2.600 lượt thích (like) và bình luận đồng tình.
Thành công ấn tượng từ Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối khiến Mưa đỏ của đạo diễn Đặng Thái Huyền trở thành cái tên được người trẻ chờ đợi nhất trong thời điểm này. Bộ phim về mùa hè đỏ lửa kéo dài 81 ngày đêm nơi Thành cổ Quảng Trị sẽ ra rạp dịp 2/9 tới. Với 90% bối cảnh diễn ra trên mảnh đất Quảng Trị, với thời gian quay không hẹn mà nên vừa đúng 81 ngày, phim có sự chung tay của một đội ngũ hùng hậu bên cạnh đạo diễn; họ là những người đóng vai trò nhà sản xuất, làm hậu kỳ, tổ chức chiến dịch truyền thông… và tất cả đều rất trẻ, về tuổi, về tinh thần dấn thân và thử nghiệm.
Mới đây, đạo diễn trẻ Hoàng Nam đã chính thức công bố dự án điện ảnh mang tên Em bé Mỹ Lai. Cảm xúc mạnh mẽ từ nhiều câu chuyện, hình ảnh về vụ thảm sát Mỹ Lai đã thôi thúc nhà làm phim trẻ “không chỉ tái hiện lịch sử mà còn cất lên tiếng nói của những đứa trẻ bị tước mất tuổi thơ, gia đình và quê hương trong chiến tranh”.
Thành công của Địa đạo, phim về chiến tranh cách mạng đầu tiên do tư nhân đầu tư toàn bộ có lẽ đã thắp lên ngọn lửa, để một đơn vị làm phim non trẻ như Challenge Me Studios dũng cảm bước chân vào một địa hạt khó như dòng phim này. Niềm tin về một dòng phim chiến tranh của người trẻ, hướng tới người trẻ trong tương lai, xem ra là hoàn toàn có cơ sở!
Cảnh trong phim Truyền thuyết về Quán Tiên.
HUYỀN NGA